Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

BÓNG CHIỀU VÀ CHÙM RUỘT.








Đầu sân có cây chùm ruột. Hồi còn đi dạy có nhiều học trò đến chơi nên trồng cho tụi nhỏ có cái để ăn vặt và vui đùa. Bây giờ về hưu rồi không còn học trò nhỏ ghé chơi còn học trò cũ thỉnh thoảng ghé thăm thì… bọn họ cũng già rồi, thậm chí có đứa tóc bạc còn nhiều hơn thầy cô và răng còn rụng trước thầy cô nên không màng tới cái thứ chua lè đó nữa! Bây giờ thì lại trông cháu ngoại mau lớn để đùa giỡn dưới gốc chùm ruột. Nhưng cháu còn bé quá và chỉ về thăm vội vàng rồi đi, chưa kịp biết chùm ruột vàng óng đang mời gọi.


eTïTTïTf



Dứt cơn mưa chiều ra nhìn gốc chùm ruột. Những chùm ruột đã già lắm rồi, nhiều trái đã chín nẫu đổi thành màu trắng úa tím nhạt. Dưới gốc cây ướt sũng nhiều trái rụng lăn lóc. Tội nghiệp những chùm ruột bạc phếch, ướt nước mưa và quạnh quẽ trong màu nắng sót chiều hôm.


Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

QUỲNH GIAO




Than ôi! Đã gẫy cây quỳnh cành giao!














Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

CÔNG VIỆC NỬA ĐÊM.



Một giờ đêm. Khó ngủ, chưa chợp mắt được chút nào đã nghe tiếng xe tải nặng nhọc ầm ù xoay trở ngoài đường. Xe gạch về tới. Lồm cồm thức dậy mở cái cửa tạm nặng chịch để xe de vô. Vừa mới dứt cơn bão rớt nên cái gì cũng ướt sủng nước. Sương xuống ướt đầm. Do xây nhà ở trong khu vực đường cấm xe tải chạy ban ngày nên suốt năm sáu tháng trời mỗi lần vận chuyển vật liệu hoặc mấy chiếc xe thi công ra vào đều phải đến và đi trong đêm.

Những người phu, gần như im lặng, lầm lũi làm việc. Trong đêm vắng tiếng gạch va chạm nhau nghe lóc róc đều đặn như một giai điệu tạo thành bởi các phím của âm vực cao nhất trên cây đàn dương cầm. Rất sợ bà con hàng xóm than phiền bị mất ngủ vì thứ âm nhạc không mấy dễ chịu này! May là chưa nghe hàng xóm trách móc gì!

***
Pha một bình trà nóng, uống vào cho ấm người và để chịu sương gió. Hai vạn rưỡi viên gạch phải xuống và chất ngay ngắn trong đêm nay. Khó mà xong việc trước sáu giờ sáng mai. Thế là thêm một đêm trắng…


Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

MƯA Ở BÊN ĐƯỜNG.


(Truyện ngắn. )

Giữa mùa mưa! Trời âm u từ sáng tới chiều, mưa rỉ rả, nước đọng thành vũng hai bên lề đường. Qua khỏi cây cầu nhỏ, một cái lò gạch cũ đang tỏa hơi khói âm u sà xuống mặt ruộng xa phía bên kia. Trong hơi mưa cái mùi lò gạch hăng hắc gây gây ngột ngạt, nhột nhạt lỗ mũi, nặng nặng lồng ngực. Xéo xéo lò gạch, ở chỗ gốc trâm bầu, có một lối mòn. Đi một đoạn ngắn theo lối mòn thì tới nhà già Tám. Trời lại sắp thêm một cơn giông. Ghé nhà già Tám mà đụt mưa vậy!
***
Già Tám có một thằng con trai trời ơi đất hỡi tên Tửng. Nghe nói hồi đó Tửng học cũng được, nhưng tới lớp 9 bỗng đâm ra mê game. Tửng mê game đến nỗi ngồi lì ngoài quán net – chừng nào chủ quán đóng cửa đuổi về mới chịu về - rồi bỏ học. Thời buổi bây giờ học hành không tới đâu, lại thêm không có sức thì không biết làm cái giống gì để mà ăn nữa!? Xin một chân bảo vệ nhà hàng khách sạn – tưởng nhàn nhã - mới được 2 tuần, thức khuya không nổi, cự lộn với đồng nghiệp, bị người ta cho nghỉ. Còn những công việc nặng nhọc thì Tửng mà làm được cái gì! Từ nhỏ Tửng đã bị gọi là đực lãi rồi, y như người ta phân biệt trâu lãi với trâu cồ vậy. Xin làm một chân phụ hồ thì Tửng chỉ làm được nửa ngày!  Vác bao xi-măng bộ giò cóm róm đi run run, chỉ mới trộn một bả hồ mà đã đứng thở dốc mặt mày xanh lét… Vậy thì làm nên cái tích sự gì! Ai mà mướn! Ru rú mãi trong nhà cũng buồn nên Tửng nã tiền hai ông bà già ra quán game để giải sầu hoặc đi nhậu với đám bạn cũng trời ơi không kém. Có hôm Bà Tám đi thăm bạn già về thấy Tửng ngồi sẵn ở hiên nhà, cái mặt thua độ hầm hầm. Bà Tám chưa kịp định thần thì nó đã hỏi:
-         Bà cho tui xin vài trăm coi!?
-         Trời! Chi vậy ?
-         Chơi game chớ chi ? Tui thua tụi nó chầu nhậu rồi!
-         Không. Mà tiền đâu tao cho mầy.
-         Bà đưa không!? Vậy chớ tiền hôm trước bà bán đất đâu hết!? Không thì tui giết bà bây giờ…
Thấy nó chụp cây dao phay để sẵn trên bàn, bà Tám hoảng hồn, kêu trời kêu đất rồi chạy tuốt qua hàng xóm lánh nạn, chờ Già Tám về bà mới dám về theo. Già Tám chỉ buông một câu:
-         Thôi đi. Thằng khùng đó hết thuốc chữa rồi!
Nó lại đi ra quán game năn nỉ chủ quán cho chơi thiếu. Cái game đó nó đã chơi tới mức thành Quần hùng Đại ca. Đại ca “vai năm tấc rộng lưng mười thước cao” có thanh đao to đùng nặng ngàn cân lượng, oai phong lẫm liệt. Đại ca múa nhẹ một đường đao là bao nhiêu quái thú tan tác và bao nhiêu kẻ ngáng đường đều bỏ mạng. Đại ca cần phải luyện thêm vài tuyệt kỹ, gặp gỡ làm quen thêm vài cô nương và giết thêm vài mạng nữa mới nâng cấp lên thành anh hùng cái thế. Khi đó đại ca mới phát lộ chân mạng đế vương được. Vậy mà hết tiền chơi tiếp! Vậy mà xin tiền ổng bả không cho! Đúng là những kẻ ngáng đường, không đáng mặt giang hồ! Chỉ những “chiến hữu đàn em” biết chia sẻ với đại ca ly rượu khi buồn vui trên đường hành hiệp mới đáng mặt kẻ giang hồ! Nhưng khổ nỗi bà chủ quán nhậu đầu đường lại không bán chịu cho dân giang hồ sạch túi và bả cũng không biết “xài” ngân lượng của “game thủ”… Thực đáng ghét, đáng ghét!

***

Thì thà hai cái thân già cứ phải cưu mang cái-thằng-đồ-bỏ-đi, thì thà Tửng cứ lê la chơi game suốt ngày hay nhậu nhẹt với đám bạn trời ơi cũng không làm cho bà Tám đau khổ bằng một buổi chiều bỗng Tửng bồng một đứa nhỏ về nhà và nói thản nhiên:
-         Bà bồng nó đi, con của tui đó!
Hai ông bà già choáng váng! Sau giây phút thấy đất sụp dưới chân, bà Tám – như một phản xạ tự nhiên – giơ tay ra ôm đứa nhỏ vào lòng. Trời ơi con bé ốm nhom xanh rớt mà cặp mắt dễ thương quá. Nó nhìn lom lom bà một chút rồi dụi đầu vào ngực bà ra vẻ yên tâm tin tưởng lắm. Già Tám bị rơi vào thế triệt buộc:
-         Má nó là đứa nào!?
-         Thì ông bà nuôi nó đi. Mai mốt tui dẫn má nó về.
-         Nó được mấy tháng rồi?
-         Gần thôi nôi rồi.
-         Trời ơi! Nó đủ sữa không?
-         Tui không biết!
-        
Tuần sau nó dẫn con vợ nó về ra mắt ông bà Tám. Ông bà Tám không hài lòng cái kiểu sui gia trên trời rớt xuống nhưng cũng không có cách nào khác. Thôi thì nấu mâm cơm mời ông bà ngoại của con bé qua uống ly rượu để cháu mình có đủ ông bà nội ngoại cho tròn trịa vậy!
Người ta nói phải lắm, thương con không bằng thương cháu. Từ hồi có mấy đứa cháu ông bà mệt ngất ngư, chi tiêu cho bản thân phải dè xẻn rất nhiều, để lo cho cháu nó ăn cho đủ, nhưng mà tận trong lòng thì cũng thấy vui. Già Tám tự an ủi là đây chẳng qua là nghiệp quả ông bà phải trả, tại hồi đó ông bà dạy dỗ thằng Tửng không chu đáo mới gây ra nông nỗi.
Giờ này Tửng không có ở nhà. Ngó vô cái bếp lạnh tanh, cơm chiều chưa nấu. Vợ Tửng đang gây với Bà Tám, vùng vằn đòi bồng con bỏ về nhà ba mẹ ruột:
-         Mầy đi thì đã đành, má không dám cản, nhưng má thương mấy đứa nhỏ đó con! Tội quá!
-         Thì tội gì chớ! Tui ở đây mấy năm mà có được cái gì đâu!
-         Thì mầy muốn được cái gì bây giờ!?
-         Thôi! Tui không nói nữa. Tui chán rồi!
-         Tội lỗi!..
-         Ai tội !? Mấy người có tội không ?
-        
-         Thằng Tửng đi đâu? Sao giờ này chưa về?
-         Con mấy người sao mấy người hỏi tui!? Không ngồi đồng ngoài quán game thì cũng say xỉn đâu đó rồi chớ đâu!
-        
Hai đứa nhỏ tròn xoe mắt ngơ ngác nghe má và bà nội nói gay gắt với nhau. Hai đứa bỏ chạy ra nhà trước. Con chị chừng 4 tuổi thanh mảnh xinh xắn có đôi mắt trong vắt còn đứa em trai chừng 2 tuổi ốm còi xanh xao, nói bập bẹ. Con chị bảo đứa em:
-         Chơi gì đi.
-         Chơi ? Gì ?
-         Hát đi.
-         Gì?
-         Hát tía em đi…
Hai chị em gõ lon sữa bò cộp cộp hát nghêu ngao lạc điệu một bài hát thiếu nhi:
-         Tía em… hùm hùm … má em… hùm hùm… chúng em… hùm hùm.
Già Tám nảy giờ nhăn mặt, im lặng, ngồi thu lu, thun người lại trong cái ghế bố mục đứt lòng thòng mấy sợi nylon, cười chua chát rồi lẩm bẩm hát chế:
-         Tía em hình như… hơi khùng khùng. Má em hình như hơi… khùng khùng. Chúng em là một bầy … man man…
Hai đứa nhỏ nghe vậy hát theo:
-         Tía em khùng khùng, má em khùng khùng. Chúng em… hùm hùm…
Bà Tám nảy giờ quạo quọ nghe vậy còn nổi sân thêm, cười gằn:
-         Ai khùng ? Hai con trâu già này phát khùng thì có!
Con vợ Tửng cười không nỗi! Mới ngoài hai mươi, hai đứa con, như cái hoa chưa kịp mãn khai đã héo, môi còn hồng mà cái mặt đã âm trì địa ngục, tay chân nổi gân xanh, vừa lấy chân lùa đống quần áo dơ hôi òm vô góc nhà, lấm lét nhìn chừng ông bà già chồng vừa lầm bầm bực bội kiểu gì đó không ra một điệu lý mà cũng không phải ca dao:
-         Chồng em sao chẳng giống trâu!
Trâu đi còn biết đường về,
chồng em đi nhậu không về như trâu!
***


Tôi là khách không mời mà ghé, ngồi trú ở mái hiên nhà người ta nhìn ra mưa rơi, nghe trong nhà giọt mưa rào rạt trên mái tôn, nghe mưa gió đổ xuống cuộc đời mà không biết khi nào dứt. Trời chẳng chiều người. Mưa chắc còn dai. Thôi phải chào chủ nhà mà về. Sợi mưa xiên xiên đâm vào con mắt, lạnh rát mặt. Gió giựt quằn quại trên mấy ngọn tre, dồn ép lào xào trong hàng rào dâm bụt, thổi bay xuống lề đường mấy cái bông còn búp hoặc chưa kịp nở hết mà đã rửa nát. Chiều chưa tối mà đã âm u thiếu điều không thấy đường đi…

 bTa

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Tưởng nhớ mùa hè...









Hè về !
Xa xôi thầy cũ bạn xưa. Viết một bài thương nhớ.
Cũng gởi đăng ở Blog của Hội quán Nhường Trà.

THẦY VÀ BẠN CŨ


Tôi ít có bạn học thân thiết để mà nhớ mặt nhớ tên và cũng ít gần gũi thầy cô của mình. Đơn giản là vì hồi tôi còn nhỏ ba mẹ cứ phải đổi chỗ ở hoài. Ba mẹ kiếm sống vất vả, lúc thì ở một cái huyện tít mù xứ muỗi Cà Mau, bước ra khỏi nhà mấy bước là đụng rừng sậy rừng đước mịt mùng, khi thì ăn nhờ ở đậu nhà ông bác ở Sài Gòn, ở một con đường nghe cái tên cũng tức cười – đường Da Bà Bầu - cơm cháo không mấy no lại quay đầu về Sóc Trăng sống với ông bà nội, suốt ngày nhong nhong ngoài ruộng với mấy con cua đồng và với mấy đứa nhỏ mốc cời người dân tộc Khmer. Cái kiếp trôi sông lạc chợ như vậy dù không đến nỗi phải bỏ học nhưng thậm chí có lớp mới vào học hơn tháng, chưa kịp thân với bạn nào đã phải lặng lẽ xách bị đệm đi xứ khác. Chẳng những không nhớ bạn cũ mà ngay cả thầy cô cũ hồi tôi còn nhỏ bây giờ cũng chỉ nhớ được thầy Mô khai tâm tôi hồi lớp năm và lớp tư, còn thì kí ức của tôi tệ đến nỗi vô phương nhớ được các thầy cô khác đã dạy tôi hồi tiểu học, đệ thất và đệ lục.

Phần lớn kí ức của tôi trong quãng đời học tập là từ lớp đệ ngũ trở đi vì từ đó việc học tập của tôi mới đi dần vào ổn định. Ba mất sớm, khi tôi mới 12 tuổi, thế là mẹ dẫn cả bầy con về quê ngoại Bến Tre! Nhưng trước đó phải lên Sài Gòn ăn nhờ ở chực hết nhà của bác rồi nhà của cậu đâu gần cả năm, lơ ngơ láo ngáo chẳng học hành gì! Khi tôi được nhận vào lớp đệ ngũ Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa thì đã gần hết đệ nhất lục cá nguyệt, không biết mẹ năn nỉ thầy hiệu trưởng làm sao để thầy cho tôi được vô học nữa! Hậu quả là lớp có 52 học trò thì hầu như tháng nào tôi cũng hạng 50 hoặc 51. Không biết đứa nào xui rủi học dở hơn tôi hạng 52 thì tôi… không nhớ! E hèm… vậy cũng tốt, có đứa hạng bét dở hơn thì tôi cũng đỡ quê! Trừ các môn âm nhạc, vẽ, còn thì chỉ có môn Việt văn của thầy Nguyễn Văn Cò và môn Pháp văn của thầy Nguyễn Duy Oanh là tôi ấm ớ được chút đỉnh, còn mấy môn khác tới giờ học là tôi sợ bị kêu trả bài đến xanh mặt! Đặc biệt tới giờ môn toán của cô Uyển là trái tim của tôi nó rớt tọt xuống dưới chân, mỗi khi bị cô gọi lên bảng là trái tim đập phình phịch giữa hai cái chân ốm nhách run rẩy đi muốn té! Vậy đó, nhưng tôi cũng lên được lớp đệ tứ sau khi bị thi lại mấy môn. Hồi đó thi rớt bằng trung học đệ nhất cấp thì vô quân trường Quang Trung là cái chắc. Mẹ lo sợ lắm nên mùa hè năm đó mẹ mua cho tôi mấy cuốn sách giúp trí nhớ mỏng dính để tôi tự ôn, tự lấy lại căn bản! Dù vậy tôi làm gì có thời giờ để học cho chu đáo như mấy đứa khác. Mẹ phải đi làm, mấy đứa em còn nhỏ lắm nên tôi phải lo tất tần tật chuyện giặt giũ, gánh nước, kiếm củi và nấu cơm. Ngày nào cũng xách cái rổ xúc nhảy xuống con kinh trước nhà để chao tép và nếu tệ lắm thì mỗi ngày phải ráng kiếm cho được một tô hến mới có cái gì mặn mặn dằn bụng đi học. Làm gì có thời giờ học bài. Ôi trời, cái khó làm ló cái khôn! Vậy là tôi nghĩ ra cách học: Trước hết phải đọc thuộc lòng đề bài, nhớ hết các giả thiết và yêu cầu chứng minh (Để thuộc lòng đề toán thì chỉ cần ít phút thôi!) Nhờ nhớ như vậy tôi không cần phải cầm cuốn sách hay cây viết nữa. Rồi tôi phải tập tiếp một khả năng nữa: ngồi giặt quần áo cho mấy đứa em cũng suy nghĩ về bài toán, đang ở dưới mương chao cá lòng tong cũng suy nghĩ về lời giải bài toán, đang đi ngoài đường cũng suy nghĩ về bài toán, thậm chí đang ngủ cũng suy nghĩ về bài toán. Đó là một khả năng hoàn toàn có thể luyện tập được (Nhưng xin bạn nào đang đọc lời trần tình của tôi đây đừng bắt chước cái kiểu đó trong lúc lái xe nghen, tôi không chịu trách nhiệm đâu!). Khả năng đang ngủ mà vẫn suy nghĩ là một khả năng hoàn toàn có thật. Minh chứng là sau này, khi đã làm thầy giáo dạy toán rồi (sic), nhiều đêm tôi vẫn sực tỉnh giấc giữa cơn mơ thấy mình đang giải mấy bài toán khó đã ra cho sinh viên mà chưa kịp viết vào giáo án hoặc không có đủ thời giờ ban ngày để giải ra cụ thể. Cũng nhờ khả năng đó mà lên lớp 12 tôi thoát nạn khi bị thầy Lê Văn Trinh kiểm tra bài tập: trong lúc có một đứa đang giải toán trên bảng – hình như là Nguyễn An Cư - thì thầy đi kiểm tra mấy đứa chuẩn bị bài ra sao. Tới bàn tôi thầy biểu mở tập ra cho thầy coi. Có trời đất chứng giám! Cuốn tập của tôi trống trơn không có lấy một dòng bài giải. Có lẽ thầy giận lắm nên hỏi một câu cụt lủn: Sao hả !!? Tôi gải đầu lắp bắp: Em có giải rồi. Thầy hỏi một câu còn cụt hơn: Đâu ? Tôi đáp rụt rè: Em chưa ghi vô tập. Tôi chắc là thầy nghĩ cái tên này vụng chèo… mà cũng vụng chống đây. Tôi còn nhớ thầy cười… một nụ cười khó hiểu: Giỏi hen, vậy lên bảng giải cho tui coi! Trời đất, tôi bước lên bảng trong trạng thái của một cơn mê sảng… Trong cơn mê đó tôi đã giải tròn trịa bài toán. Sau đó thầy chỉ cười độ lượng và hừ một tiếng xóa tội cho tôi!

Nhưng mà khả năng đó cũng không làm tôi “vượt lên chính mình” được. Phải có hai người quan trọng mà trời đất sắp xếp để giúp tôi lấy lại lòng tự tin, giúp cho tôi thấy rằng tôi không phải là đứa chuyên ở gần hạng bét, và rằng tôi… cũng có chút giá trị nào đó trong cuộc đời!

Người thứ nhất là thầy Trần Thanh Sao, thầy dạy tôi môn vật lí hồi lớp đệ tứ. Tôi thích cách dạy của thầy lắm: khoan thai, mạch lạc và hấp dẫn. Nhưng như đã nói trên, tôi là đứa học trò không hồi nào thuộc bài (hiểu theo nghĩa đọc vanh vách cái gì được chép vô tập). Bởi vậy mỗi lần ấp úng lên trả bài là tôi có nguy cơ nhận cây gậy dưỡng già hoặc con ngỗng về nấu cà ri! Lần đầu tiên thầy gọi tên lên trả bài, tôi ngắc ngứ đứng trồng cây trên bảng, tự nhiên quên đâu hết trơn bài học. Thầy hỏi hiền từ: Em chưa học bài hả? Tôi đáp lí nhí: Dạ, em hiểu bài nhưng không đọc lại được. Thầy đưa cho tôi cục phấn và nói: Em hiểu làm sao, cứ nói lại coi. Tôi lấy lại bình tĩnh, và tôi bỗng dưng “thông minh đột xuất”! Cầm lấy viên phấn tôi trình bày lại như mình hiểu về điện trở, cường độ dòng điện và điện thế cũng như các công thức liên quan. Thiệt tình là khi trình bày xong tôi đã đứng ngây người chờ “kêu án”. Dè đâu thầy cười hiền từ nói gọn: Tốt! Tôi được điểm tuyệt đối. Nếu tính theo thang điểm 10 thì đó là điểm 10 đầu tiên trong cuộc đời học trò của tôi. Dù sau này tôi còn được nhiều điểm 10 khác, kể cả sau này khi tôi học ở Trường Đại Học Bách Khoa, mỗi lần nhớ lại cái điểm 10 đó tôi còn muốn khóc. Trước điểm 10 đó hình như tôi chỉ làm cho các thầy cô bực bội vì… ngu. Điểm 10 đó và sự ôn tồn của thầy đã mở tung cánh cửa tâm trí cho tôi. Nếu thầy Mô là người đã khai tâm cho tôi thì thầy Trần Thanh Sao mới là người mở trí cho tôi. Gần đây đọc một bài trong tạp chí Scientific American nghiên cứu về vai trò cốt yếu của người thầy dạy khoa học trong thời đại công nghệ thông tin – thời đại mà tri thức tràn ngập không gian thông tin, chỉ cần gõ một dòng từ khóa vào Google và một cái nhấp chuột là có gần đủ các tri thức cần biết - người ta xác định rằng điều quan trọng nhất của người thầy ấy là truyền được cảm hứng và lòng yêu khoa học cho học sinh chứ không phải bản thân cái khối lượng kiến thức cần phải nhồi nhét. Tôi mang ơn và may mắn biết bao có được một người thầy đức độ và “đi trước thời đại” như thế trong cuộc đời.

Người quan trọng thứ hai là thằng bạn tên Việt. Việt nó học giỏi toán thì khỏi phải nói rồi mà nó còn giỏi nhiều môn khác nữa. Tôi thích nó và hay tới nhà nó chơi trước tiên không phải tại vì nó giỏi. Tôi thích nó trước tiên vì… nó không có Ba giống như tôi. Tại sao nó không có Ba thì tôi không biết, và cũng không nên biết. Thời kì chiến tranh đó đừng hỏi vì sao người đàn ông không thấy có mặt ở nhà! Cái câu hỏi đó khó trả lời hoặc là một câu hỏi nguy hiểm! Má nó là một người phụ nữ mộc mạc, rất hiền, có một sạp bán guốc ngoài chợ. Má nó và mẹ tôi quen nhau, thỉnh thoảng mẹ cũng sai tôi đem mấy đôi guốc mòn sứt quai của bà tới nhờ má nó đóng lại bộ quai mới, cũng là một lí do để tôi đến nhà nó. Lí do khác là nó chẳng bao giờ “chộ” tôi vì những kiến thức tôi bị thiếu sót, mất căn bản, và nếu tôi vẫn còn u ơ thì nó thân ái nhắc lại một cách nhẹ nhàng, giải thích tận tường như thể nó là thầy của tôi vậy. Cứ thế, cho đến lớp 12 thì tôi cũng được “ngang ngửa” với nó rồi. Nói rằng tôi thân với nó thì cũng không thân. Việt là đứa con ngoan, chăm chỉ hạt bột, trừ đến trường tôi không thấy nó đi chơi, còn tôi là đứa đôi khi lêu lổng – thậm chí “cúp cua” và có lần còn bị cấm túc. Khi đi đâu chơi hầu như tôi quên nó mà đi với bạn khác. Giả sử tôi có rủ rê nó – ví dụ đi uống cà phê nghe Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn ở quán Giao Châu (không phải tôi đã đến hồi dư dả gì đâu, chỉ là nhịn ăn sáng để uống cà phê tối mà thôi) - chắc nó cũng không đi đâu! Dù vậy, nó quan trọng đối với tôi, cả trong học tập lẫn trong tình bạn. Còn tôi có quan trọng đối với nó không thì tôi không biết. Biết làm sao được khi bạn có một người bạn luôn luôn trầm tĩnh, kín đáo, chẳng khi nào nói với bạn chuyện gì trừ chuyện học!


          Thời cuộc gây ra biết bao nhiêu ngả rẽ trong cuộc đời. Những nhánh sông rồi mải miết chảy về phía trước, chẳng bao giờ gặp lại. Tôi với nó cũng vậy. Tính ra đã gần 40 năm rồi bặt tin nhau. Có một lần họp mặt ở quán Nhường Trà, thấy tôi ngồi chông ngốc một mình, và chắc cái bản mặt của tôi giống cái đám un hay sao đó nên một bạn trong ban tổ chức đến hỏi: Sao ngồi cô đơn vậy? Không gặp bạn cũ nào à? – Đúng rồi có khi người ta cô đơn kinh khủng giữa một đám đông những người quen biết. Nhà thơ Lamartine đã viết “Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé!”. Lamartine viết câu đó vì mất người tình Envy. Còn tôi, tôi không mất một người tình, chỉ là thiếu một người bạn mà hồn tôi cũng trống vắng vô cùng.

eTf