Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

BÓNG CHIỀU

...

Bờ sông buổi chiều buồn hết sức! Mênh mông vắng lặng. Chỉ có dề lục bình rập rềnh dưới chân đám lá dừa nước. Đứng dựa vào cây dừa tôi buồn rầu nhìn buồng chuối có mấy trái đã chín vàng. Không thể nào không liên tưởng đến câu ca dao:

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau…
Đây là đất hương hoả. Cách bờ sông mấy bờ dừa là nơi an nghỉ của ông Ngoại, cuả dì Hai. Là nơi để những chiếc lá vàng, sau một đường bay cuối cùng, về với cội nguồn. Và bây giờ tôi về đây để lo một việc mà đứa con nào cũng sợ hãi: Xây sẵn cái huyệt mộ mà ngày nào đó khi lấp lại thì – trong ngày lễ vu lan - người ta sẽ chỉ gắn lên ngực tôi đoá hồng trắng màu khăn tang! Mười một tuổi, khi còn là một đứa trẻ, tôi đã vuốt mắt cho cha mình. Từ đó chịu một khoảng đời gót chân lấm bùn, ăn những chén cơm tủi thân và đôi khi tủi nhục đầy nước mắt. Suốt một thời chiến tranh dữ dội, thiếu vắng cha, vậy mà mẹ đã nuôi nấng cho bốn anh em lành lặng, lớn khôn. Mẹ đã bày một vòng nôi nghèo nàn nhưng rạng rở để đón tôi vào cuộc đời, còn tôi giờ đây chuẩn bị lòng đất sâu để đưa người về với cát bụi! Lòng tôi đau như cắt! Đất mẹ ơi, dòng sông mẹ ơi, tổ tiên ơi xin hãy yêu mến người một ngày kia sẽ quay về lại..

Dưới rừng dừa, chiều êm ái nhưng chiều âm u vắng lặng. Chỉ có tôi bơ vơ trong bóng chiều.

Thứ Hai, 25 tháng 10, 2010

Dự án Bauxit, dàn khoan Macondo, BP và 20 tỷ đô la.

...

Bình tôi không phải là chuyên gia kinh tế-quốc phòng hoặc quan hệ quốc tế, lại càng không phải là người am hiểu về môi trường và khai khoáng, nên lâu nay chỉ làm một việc là “dựa cột mà nghe” vụ bauxit ở Tây nguyên. Mấy ngày này nghe người ta bàn ra tán vào vụ bauxit nhiều quá, nên dẫu là “thất phu” cũng thấy mình “hữu trách” với chuyện của nước non, và cũng động lòng muốn thỏ thẻ đôi chút!

Trong năm nay có hai vụ ô nhiễm môi trường lớn:

Một là vụ tràn dầu do cháy nổ ở dàn khoan Macondo của công ty BP. Vụ tràn dầu ngay trước bờ biển bang Mississippi của xứ cờ hoa làm ô nhiễm vịnh Mê-hi-cô đến nỗi ngài tổng thống Obama nổi giận đòi BP bồi thường thiệt hại môi trường đâu chừng 20 tỷ đô la. Có “chút xíu” 20 tỷ đô la mà anh BP thất điên bát đảo, suýt sập tiệm khi giá chứng khoán của ảnh tuột dốc cái rột trong một sớm một chiều. Nghĩ mà thương anh BP, ảnh làm ăn có trách nhiệm nên năn nỉ được bồi thường. Và cũng thấy làm cái anh nước lớn sướng thiệt! Đúng là miệng ngài Obama có gan có thép, nói một tiếng là BP răm rắp tuân theo. Nghĩ như dân An Nam mình có chín con rồng sắp sửa mắc cạn vì hết nước, không biết nghìn năm “thăng long” lần này mấy con rồng đó rồi có “thăng” được không!? Hồi còn nhỏ - ngày nào cũng phải đi gánh nước- nên Bình tôi nhớ là mỗi năm thành phố Bến Tre chỉ bị nước mặn không quá ba ngày, vậy mà gần chục năm nay năm nào Bến Tre cũng bị nhiễm mặn hơn một tháng khiến dân tình khốn đốn. Ở đầu nguồn có “ông lớn” thâu tóm nguồn nước – mặc kệ chín con rồng con chết khát - vậy mà đâu có ai dám ọ ẹ cái gì đâu!

Cái vụ thứ hai là vụ vỡ hồ chứa bùn đỏ ở Hungary gây ra nguy cơ ô nhiễm con sông cực kì lãng mạn của nhạc sĩ J. Strauss. Cái con sông mà là mối tình của đất và nước của nhiều quốc gia châu Âu: sông Danube. Cả Châu Âu xao xuyến, lo lắng. Cái vụ này mới làm nhiều nhân sĩ trí thức thấy bức xúc khi cân nhắc tới chuyện bauxit ở xứ ta. Nghĩ thiệt tội, alumin ta khai thác rồi đem bán rẻ cho “ông lớn”. Ông lớn đang giàu lên từng ngày, kinh tế ông lớn đang rất cần nhôm. Phải có nhôm thì “ông lớn” mới chế tạo máy bay và tên lửa được. Không có máy bay tên lửa hùng hậu thì ông lớn làm sao xấc xược và ngang ngạnh đòi cho được miếng lưỡi bò quan trọng ở Biển Đông. Không có miếng lưỡi bò đó ông lớn làm sao giữ vững vị trí nền kinh tế thứ hai trên thế giới và ôm mộng lên ngôi thứ nhất! Có nhà trí thức của ta đã tính rồi, khai thác bauxit chẳng làm cho dân ta giàu thêm. Nhưng nghĩ cũng thiệt tội, nếu mùa khô mà bụi đỏ bay qua xứ Đế Thiên Đế Thích hay lỡ ra vỡ hồ chứa bùn đỏ tràn xuống Nam Bộ hay ô nhiễm Biển Hồ thì hậu duệ của Đế Thích có dám đòi ta bồi thường 20 tỷ đô la không ha!? Chắc có người suy nghĩ “hổng dám đâu!”. Có người suy nghĩ như vậy thiệt đó mà!

Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2010

CẢNH BÁO BÃO MEGI

MỘT CƠN BÃO DỮ DỘI ĐANG VÀO PHILIPPINE.
Hôm nay bão đang ở cấp 5 (theo thang đo bão nhiệt đới), sức gió đang trên 250 km/h. Có thể thấy mắt bão rất rõ trên ảnh vệ tinh (nguồn http://www.tropicalstormrisk.com/tracker/dynamic/main.html
Dự báo trong 120 giờ tới (5 ngày nữa) bão sẽ vào vịnh Bắc Bộ với sức gió xấp xỉ 200 km/h.
-----
Cập nhật:
Hôm nay (20/10/2010) bão đã chuyển hướng lên phía bắc, đi vào vùng biển giữa Hong Kong và Đài Loan

Thứ Ba, 12 tháng 10, 2010

ĐÔI TAI LỪA.

...
Thần thoại Hy Lạp có chuyện vua Midas là một bậc anh hùng, nhưng khốn thay vua có đôi tai lừa. Chuyện kể rằng hồi đầu đôi tai của ngài cũng như mọi người thôi nhưng sau ngày lên ngôi, vua có vinh dự tham gia ban giám khảo cuộc thi tài âm nhạc giữa hai thần Pan và Apollon. Ai cũng nói tiếng đàn lyre của Apollon hay hơn tiếng sáo của thần Pan, chỉ có vua là nói ngược lại. Thần Apollon giận dữ biến đôi tai của vua thành tai lừa. Từ đó vua phải mũ ni che tai để không ai biết mình có đôi tai kì dị và cũng để không phải nghe những lời đàm tiếu.
Dầu vậy vua vẫn phải hớt tóc. Chuyện vua hớt tóc là nỗi kinh sợ của các bác thợ cạo xứ Phrygie. Cầm cái dao cạo sắc ngọt lịm kề lên cổ vua để… cạo hàm râu ăn uống dơ hầy của vua đã đủ cho thợ cạo run bắn người. Không run sao được khi chung quanh vua là đám kiêu binh gươm giáo sáng ngời, còn sáng hơn cái dao cạo nhiều! Nhưng điều bí mật ở chỗ thợ cạo nào hớt tóc cho vua cũng đều mất tiếng một cách khó hiểu.
Có một anh thợ cạo khốn khổ. Anh cạo tới chỗ lỗ tai của vua thì khám phá ra sự kì quái. Vua thấy anh run quá bèn hỏi ngươi thấy đôi tai của ta như thế nào. Anh thợ cạo nghĩ mình còn vợ yếu con thơ, sợ vợ con bị họa lây, bèn gắng gượng nói hạ thần thấy nhiều người có đôi tai cũng giống vậy, có gì lạ đâu! Vua khoái quá cho về an toàn, chỉ có điều phải hứa không được phát biểu linh tinh, không được nói năng thiếu tổ chức.
Cơ khổ! Hồi đó thành Phrygie chưa có nết-niếc, chưa có cái vụ bờ-lốc, nên anh thợ cạo bị ẩn ức không biết tỏ cùng ai. Anh bèn đi thật xa, tới một chỗ hoang vu, đào một cái lỗ thiệt sâu. Anh chõ cái miệng của mình vào cái lỗ nói thì thầm: Vua Midas có tai lừa… vua Midas có tai lừa… vua Midas có tai lừa… Nói xong anh như trút được gánh nặng phải ôm trong bụng bấy lâu nay, thơ thới ra về.
Thần khẩu hại xác phàm! Chỗ cái lỗ lại mọc lên một đám sậy. Một đám sậy biết tư duy nên cứ mỗi lần gió thổi qua lại gieo trong gió câu: Vua Midas có tai lừa… Vua Midas có tai lừa…
Câu truyện này là tôi kể cho ông già hớt tóc của tôi nghe chơi. Ở tiệm hớt tóc bình dân mà, người ta kháo với nhau đủ thứ chuyện trong khi chờ tới phiên làm sạch mặt mũi mình. Ông già cười ngặt nghẽo làm tôi cũng sợ run. Ông lo cười mà đẩy một dao vô cổ tôi thì... tiêu đời trai trẻ. Ổng hỏi vậy chớ đoạn kết của câu truyện ra làm sao, có hậu không? Tôi đâu có nhớ, cái truyện đó tôi học quá lâu rồi, nên xạo thêm một đoạn như vầy:
Thần Apollon có lời nguyền chừng nào vua Midas chịu bỏ cái mũ ni và chịu nghe cây sậy nói thì đôi tai sẽ trở lại bình thường.

Chắc phải có gió lớn lắm thì tiếng nói của cây sậy mới đến được tai vua Midas. Còn vua Midas bỏ cái mũ ni ra hay sai lính đốn cây sậy thì tôi không biết.

Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010

PHẬT PHÁP

Meditation 6

Thế giới tâm linh là cái gì? Linh hồn là cái gì? Có lẽ đó là một trong những câu hỏi ám ảnh nhân loại nhất. Hầu hết (nếu không nói là tất cả) các tôn giáo đều khẳng định sự tồn tại của linh hồn. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở bạn phải có niềm tin tôn giáo, tức là thứ niềm tin không thể biện giải được và cũng không cần biện giải. Có tin có thấy! Nhưng như thế thì bạn lại dễ rơi vào một trong những nguỵ biện mà logic hết sức tránh xa. Thứ nguỵ biện đó có tên gọi là "lấy kết luận làm tiền đề - post hoc ergo propter hoc!".  Một niềm tin kiểu đó chẳng khác nào bạn sẽ kết luận mặt trời mọc là tại vì gà gáy sau hàng ngàn hàng vạn năm bạn "kinh nghiệm" hể gà gáy là mặt trời mọc hoặc mặt trời mọc là gà gáy. Từ xa xưa có một ông Khổng Tử lừng danh né tránh vấn đề đó bằng cách nói "kính nhi viễn chi", bởi chưa có ai chết rồi mà lại lừng lững trở về giữa nhân gian bằng xương bằng thịt như cũ để nói cho thiên hạ biết mình đã đi đâu và làm sao lại trở về được. Khoa học hiện đại chỉ cố gắng tiếp cận với cái gọi là giác quan thứ sáu và chưa bao giờ có câu trả lời dứt khoát. Còn bình dân nói chung là người ta kể những câu chuyện ma hồi hộp, hấp dẫn, ghê rợn hoặc huyền bí chẳng bao giờ xác định được tính chân thật của sự kiện!

Con người có lẽ là sinh vật lạ lùng nhất trong chúng sinh. Con người có một khả năng nhận thức mà cho tới nay chưa thấy có ở các sinh vật khác. Khả năng đó là con người có thể tự vượt ra khỏi nhà tù ý niệm đang có để nhận thức về chính mình, để nâng cao hơn trí tuệ của chính mình, để có các ý niệm khác. Điều đó chẳng khác nào một robot có khả năng nhận thức về chính chương trình đã lập trình sẵn cho mình và có khả năng nâng cao "trí tuệ" để tự-tái-lập-trình cho mình ở một mức cao hơn. Phân tâm học của Freud thì xem hành vi (và do đó nhận thức) của con người như biểu hiện bên ngoài của một thứ vô thức thống trị bởi libido tình dục. Tâm lý học hành vi thì dựa vào thí nghiệm phản xạ có điều kiện của Pavlov mà ông Marx khái quát hoá thành: "Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội". Những quan niệm đó rốt cuộc ràng buộc khả năng nhận thức của con người trong nhà tù phẳng, hai chiều các ý niệm hoặc có tính chất thuần tuý sinh vật, hoặc biến con người với chữ Người viết hoa thành một nhân vật thụ động trong mối quan hệ bầy đàn! Chỉ cần thêm một bước nữa là các quan niệm đó dẫn tới F. Nietzsche! Câu hỏi linh hồn là cái gì thực chất là câu hỏi liên quan đến bản chất và nguồn gốc của trí tuệ con người, về khả năng tự tái lập trình đã nói kia. Đó là một câu hỏi nghiêm túc chưa bao giờ có câu trả lời chính xác.

Con người để lại các sản phẩm tinh thần của mình vào (hoặc chuyển hoá tinh thần vào) các phương tiện vật chất. Khi ta cầm một cái chén cổ ta có thể nhận thức được trình độ tinh thần của ông cha (đã khuất) trong hình thức, trong vật liệu cũng như công nghệ để làm nên cái chén đó. Khi ta nhìn thấy vết đạn pháo to đùng còn để lại trên tường thành Thăng Long ta có thể biết được ông cha ta đã thủ thành Hà Nội như thế nào trước sự tấn công của quân Pháp và Hoàng Diệu đã can trường ra sao. Ngay các di sản phi vật thể như một điệu lý, một câu hò, cũng cần phải được ghi lại qua một phương tiện vật thể nào đó gián tiếp.

Phương tiện (media) tức là môi trường vật chất để ghi lại nội dung tinh thần. Phần tinh thần qua nội dung mà tôi viết đây, bạn đang đọc đây, được ghi lại trên một đĩa DVD nào đó, một ổ đĩa cứng nào đó trong các web server của Google ở Mountain View (San Jose), California. Tôi cũng ghi lại nội dung này trên ổ đĩa cứng ở máy tính của tôi, trên thẻ USB của tôi. Bài thơ mà bạn đọc được trên blog của nhà thơ Cao Thoại Châu cũng được ghi lại trên HDD của Google nhưng có lẽ còn có một bản ghi trên giấy ở Long An (nếu ông ấy có thói quen xưa cũ đó). Tất cả các phương tiện đó đều khác nhau về trạng thái vật chất nhưng "nội dung" của "tinh thần" thì không hề thay đổi. Vậy có thể nào quan niệm con người - cụ thể là thân xác con người - chẳng qua chỉ là phương tiện, là cái áo để mặc cho tinh thần (hoặc gọi bằng một từ khác: linh hồn). Có thể nào quan niệm linh hồn chính là thông tin được lưu trữ trong phương tiện thân xác? Linh hồn chính là nội dung của thông tin được mang bởi thân xác?

(Ở đây ta gặp một vấn đề về khái niệm: Thông tin là gì? Có thể nói gọn, mặc dù không chính xác lắm: Thông tin chính là đại lượng biểu diễn sự thay đổi trạng thái, biểu diễn sự vận động. Sự vật sự việc nào đó không vận động, không thay đổi trạng thái thì không có thông tin. Nhưng sa đà vào vấn đề này sẽ dẫn entry này đi quá xa khỏi ý chính).

Lại nảy sinh câu hỏi khác: Nội dung của thông tin đó có mất đi không khi không còn phương tiện lưu trữ? Linh hồn có tồn tại độc lập với thân xác không?.v.v. Để tránh những câu hỏi bất - tận - không - cùng đó, cuối cùng phải dùng một ba cách: Cách thứ nhất, sử dụng một hệ tiên đề và các khái niệm ban đầu không được định nghĩa (hoặc không thể định nghĩa). Cách thứ hai, viện dẫn tới thượng đế, tới một đấng chí tôn nào đó. Cách thứ ba, nhận thức về một nguyên lý chi phối toàn thể sự vận động của sự vật sự việc. Cách thứ nhất và cách thứ hai thực chất là một. Cách thứ nhất rốt cuộc cũng hình thành một thứ thượng đế trong khoa học mà thôi!

Còn nguyên lý? Nguyên lý nào? Có nguyên lý nào bất biến hay không? Câu trả lời hãy còn xa lắm!

Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2010

Thứ Tư, 29 tháng 9, 2010

LẠNH.

...

Mái nhà rất lạnh!
Mỗi buổi chiều về,
Con chim gì kêu lạc lõng ngoài sau!
Đôi đũa buồn,
Khua cái chén bơ vơ.

***

Chỉ còn đoá hoa dại
Nở bên hiên
Mấy cái lá khô
Xoắn lại
Gói lòng sâu một cõi ưu phiền.

***

Một ngày.
Thêm một ngày.
Giữa đêm ngồi lặng lẽ
Bóng ai mơ hồ nhìn trên vách,
Con dế buồn rỉ rả trong đêm.

Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2010

THỜI ĐẠI VƯỚNG MẮC.

...


Hôm nay chủ nhật. Theo dự định là sẽ cuốc đất san phẳng một phần vườn đất thấp mỗi khi trời mưa vẫn bị ngập. Kêu xe ba-gát đổ đất mấy ngày nay rồi. Đống đất cao nghều nghệu trông nhức mắt. Nhưng từ sáng tới giờ trời vẫn mưa lê thê ướt át, không làm được! Thôi thì bật máy tính lên. Định vào http://www.blogger.com/ để sửa mấy chỗ gõ sai trong entry đã post lên lần trước (Tôi có thói quen gõ cho nhanh các ý xuất hiện trong đầu rồi sau đó sửa lỗi chính tả hoặc bị gõ nhầm sau). Không thể nào mở được web site đó. Dĩ nhiên tôi cũng biết cách sử dụng IP giả để truy cập các trang bị chận thôi! Có cả đống proxy sẵn sàng làm việc đó mà. Và người sử dụng net vẫn thường làm vậy. Coi thống kê số lần truy cập trang blog này do FLAG counter thực hiện là biết ngay. Lấy ví dụ con số cho tới sáng nay: 16.987 lần truy cập. Trừ những truy cập tôi biết chắc là từ đâu (hoặc bởi ai) thống kê dưới đây:


Vietnam 6545


US (Mỹ) 932


HU (Hungary) 843


SG (Singapore) 146


DE (Đức) 139


FR (Pháp) 96


CA (Canada) 87


AU (Úc) 71


--------------------------------


Tổng cộng: 8859


thì suy ra số truy cập bởi IP ở các nước khác: 16987-8859 = 8128 (Xấp xỉ: 48%). Làm gì có nhiều thế ai đó ở nước khác quan tâm đến trang blog tiếng Việt khá lẩm cẩm này, tiếng Việt đâu phải là thứ tiếng phổ biến trên thế giới! Trừ đi một số rất ít người ngẫu nhiên lướt qua blog, gần như có thể phỏng đoán 90% trong số 48% đó đều là người Việt, đọc tiếng Việt, ở Việt Nam! Chỉ có điều họ dùng IP giả, thế thôi!


Thời đại vướng mắc! Làm cái gì đó không thật, khoác áo người khác hoặc núp bóng người khác hồi nào cũng là sự không thoải mái. Tôi không nói bao giờ đó cũng là tội lỗi. Đôi khi người ta không thật tại vì người khác không cho người ta sống thật, không cho người ta sống theo thiên lương của mình.


Internet vốn là một môi trường thông tin rộng rãi, hầu như không có trở ngại về biên giới. Trừ khi chủ sở hữu web site ngăn chặn người dùng truy cập thông tin riêng của họ bằng yêu cầu sử dụng mật khẩu, bằng tài khoản riêng, trang web đó sẽ đến được với người muốn đọc bằng URL của nó. Dĩ nhiên trong một môi trường thông tin rộng rãi như vậy thì đồng thời với một kho khổng lồ kiến thức thơm tho, thông tin hữu ích cần được chia sẻ giữa loài người, cũng tồn tại một đống rác hôi thối khổng lồ không kém các web site bạo lực, phân biệt chủng tộc, hằn thù tôn giáo, lạm dụng tình dục, thông tin sai lạc về hoạt động kinh tế, các game online ngấm ngầm hình thành nơi giới trẻ các quan điểm và hành động xã hội nguy hiểm. Nhiều tổ chức xã hội hoặc nhiều chính phủ muốn ngăn chặn các web site nguy hiểm, không sạch đó. Có thể một nhà trường muốn ngăn một số trang web không cần thiết cho việc học tập của học sinh sinh viên. Có thể một công ty không muốn nhân viên truy cập linh tinh trong giờ làm việc. Có thể một chính phủ không muốn công dân của mình truy cập một số trang nhạy cảm về chính trị. Coi cái cách mà Trung Quốc ngăn chặn Google hiển thị sự kiện Thiên An Môn, coi cái cách mà Việt NamPakistan ngăn chặn Facebook thì rõ…



Có một cách tiếp cận "vui vui" về việc này! Trên tờ National Geographic (January 2010), bản tiếng Anh, có một bài nói về Singapore: SINGAPORE RESOLUTION, trang 140:


" ....


Self-censorship is rampant in Singapore, where dealing with the powers that be is "a dance", say Alvin Tan, the artistic director of the Necessasy Stage, which has put on dozens of plays dealing with touchy issues such as the death penalty and sexuality. Tan spends a lot of time with the government censors. "You have no use the proper approach," he say. "If they say 'south,' you don't say 'north.' You say 'northeast.' Go from there. It's a negotiation.


....."


(Alvin Tan, giám đốc nghệ thuật của Necessary Stage, đã cho diễn hàng chục vở với đề tài nhạy cảm như tử hình và về tình dục nói: Tự kiểm duyệt là bạo liệt ở Singapore, theo đó làm việc với các thế lực (nhà chức trách) là chuyện múa may. Tan mất bộn thời giờ với sự kiểm duyệt của nhà nước. Tan nói: "Bạn đừng tiếp cận chính diện. Nếu họ nói 'nam', bạn đừng nói 'bắc'. Bạn hãy nói 'đông bắc'. Hãy bắt đầu từ đó. Đó là cách giải quyết bất đồng! )


Ở đâu cũng vậy! Cuộc đời nhiều khi không cho người ta sống ngay thẳng được!


Cái hàng rào định ngăn chặn kẻ trộm vô vườn của tôi – tôi đã mất khá nhiều tiền để làm cái hàng rào đó (rất xót của vì tôi không phải là kẻ giàu có gì) - rốt cuộc không chặn được tụi ăn trộm hồi tết vừa qua. Nhưng cái hàng rào đó khiến anh bạn của tôi giận hờn vì mấy lần không gọi cửa được. Đi xa những 50 cây số đến thăm tôi nhưng anh đành quay về vì tôi ngủ trưa không nghe anh gọi lẫn tiếng chuông reo. Anh bạn tôi là thày giáo, là người ngay thẳng, vì vậy anh không làm một chuyện dễ ợt là leo rào vào nhà kêu tôi dậy pha trà.


Tôi cũng vậy, sử dụng IP giả là chuyện dễ ợt! Vậy tôi sẽ leo qua cái Firewall này không? Chắc rồi tôi cũng không nói 'bắc' mà phải học nói 'đông bắc'.


Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2010

PHẬT PHÁP

....

Meditation 5


Tìm kiếm lời đáp cho những câu hỏi về thế giới nhận thức là việc cực kì khó khăn. Tôi còn nhớ mình đã phải suy nghĩ lung lắm để mong muốn thấu hiểu câu kinh chấn động: "Pháp bất khả tư nghì, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm truyền tâm, kiến tính thành Phật". Ít nhất tôi đã mất gần 40 năm để quán tưởng chỉ một câu đó. Từ năm tôi 18 tuổi thầy tôi đã ban cho tôi một công án. Và tôi phải đi con đường của mình để tìm ra lời giải. Con đường đó tôi đã đi từ những ngày đất nước còn chiến tranh dữ dội, suýt mấy lần mất mạng vì bom đạn, trải qua những năm tháng trầm kha vì bệnh hoạn đói nghèo sau chiến tranh, tới ngày có phần thanh thản được như hôm nay. Khi nào có thể tôi đều suy nghĩ về điều đó! Con đường dễ dàng nhất là chạy tìm một vị cao tăng nghe thuyết pháp, ngồi yên trong chánh điện một ngôi chùa để thiền định. Nhưng tôi đã không làm thế! Tôi cần phải đi giữa cuộc đời và tìm kiếm lời giải cho riêng tôi. Tại sao bất khả tư nghì? Vì sao văn tự và nói chung mọi loại ngôn ngữ trở nên bất lực trên con đường nhận thức? Tâm là gì và làm thế nào để "nội dung" của nhận thức - giả sử có thể gọi như thế - có thể truyền đạt mà không cần ngôn ngữ? Tính là gì, thực ra có cái gọi là bản chất, là tính hay không khi mọi thứ đều trong quá trình vận động, sự thay đổi mới là thường hằng? Mỗi câu hỏi đó đều có thể dẫn ta tới những hố thẳm của tư duy!

Một thời gian dài tôi là một người làm toán và dạy lôgic học. Ai cũng biết rằng trong lôgic học phải tuân thủ hai luật: Thứ nhất, luật phi mâu thuẫn. Thứ hai, luật triệt tam. Không có thứ vừa đúng vừa sai và cũng không có thứ không biết đúng hay sai trong "khoa học". Chỉ đến khi tôi bắt đầu tìm hiểu về thuyết tương đối tôi mới mơ hồ nhận ra giới hạn của lôgic học nhị nguyên. Một ngày nọ khi người ta bỗng thấy mình đứng giữa các nghịch lý, như nghịch lý Bertrand Russell chẳng hạn, hoặc nghịch lý về thời gian như đoạn phỏng dịch sau đây thì người ta có thể hiểu được phân nửa câu kinh "Pháp bất khả tư nghì, bất lập văn tự". Phân nửa còn lại thì cho tới giờ này tôi cũng không hiểu được. Nói cho vui, có khi cần vài kiếp nữa mới hiểu được không chừng!



Thời gian có thể chấm dứt không?


Có. Và không. Có vẻ như thời gian chấm dứt vừa là điều không thể vừa là điều không tránh khỏi. Các công trình vật lý gần đây đưa ra một khuyến nghị cho nghịch lý đó.


(Trích bài viết của GEORGE MUSSER)


Trong kinh nghiệm của chúng ta, chẳng có cái gì là thật sự kết thức. Khi chúng ta chết đi, cơ thể của chúng ta phân rã và vật liệu (làm nên chúng ta) trở về với đất, với không khí để sáng tạo ra một sự sống mới. Chúng ta sống dựa trên những gì đến trong tương lai (nguyên văn: We live on in what comes after). Nhưng có phải bao giờ cũng như thế không? Phải chăng sẽ tới một thời điểm trong tương lai khi đó không có "sau (tương lai)"? Thật nản lòng, vật lý học hiện đại cho rằng câu trả lời là "đúng vậy". Thời gian có thể tự nó sẽ kết thúc. Mọi vận động rồi sẽ chấm dứt, và không có cái gì tái sinh hoặc phục hồi. Sự kết thúc của thời gian chính là sự kết thúc của mọi kết thúc.

Cái viễn cảnh ghê gớm này, từng là một dự báo không được mong đợi của lý thuyết tương đối tổng quát của Einstein, cung cấp cho chúng ta một sự hiểu biết hiện đại về lực hấp dẫn. Trước khi có lý thuyết này, phần lớn các nhà vật lý và triết học nghĩ về thời gian như một nhịp trống phổ quát, một tiết điệu cần mẫn, không bao giờ thay đổi, gợn sóng hoặc dừng lại trong bước đi của vũ trụ. Einstein chỉ ra rằng vũ trụ giống như một phiên tắc nghẽn lớn đa tiết điệu (big poly-rhythmic jam session). Thời gian có thể chậm lại dần, hoặc bị kéo dãn, hay bị xé rách. Khi chúng ta cảm thấy lực hấp dẫn (chính là) chúng ta đang cảm thấy nhịp thời gian; các vật đều rơi theo một đường tới chỗ mà thời gian trôi qua chậm hơn. Thời gian tương tác với vật chất giống như tay trống và vũ công ảnh hưởng qua lại trong một tiết tấu cuồng loạn. Nghĩ mà xem, khi bị rớt nhịp thì thời gian có thể đột ngột nổi nóng bỏ đi ra ngoài hút thuốc giống như tay trống bị quá kích động!

Thời điểm đó được biết như điểm bất thường (singularities). Thuật ngữ này hiện nay được dùng để chỉ bất kì biên giới nào của thời gian, sự bắt đầu hoặc sự kết thúc của nó. Điểm bất thường được biết đến nhiều nhất là vụ nổ lớn (big bang), thời điểm 13.7 tỉ năm trước khi vũ trụ của chúng ta – và cùng với nó là thời gian – bùng nổ sự tồn tại và bắt đầu dãn nở. Nếu lúc nào đó vũ trụ ngừng dãn nở và lại bắt đầu co lại (giống như big bang nhưng theo hướng ngược lại) trong một vụ nghiền lớn (big crunch) - sẽ làm thời gian sụp đổ và dừng.

Thời gian không phải bị tiêu tùng ở mọi nơi. Thuyết tương đối nói rằng nó tiêu tùng trong các lỗ đen khi điều này xảy ra trong phạm vi rộng của vũ trụ. Các lỗ đen nỗi tiếng là huỷ hoại nhưng chúng dám còn tệ hơn bạn có thể tưởng. Nếu bạn rơi vào một trong chúng, bạn không chỉ bị xé tan mà dòng thời gian của bạn phải chấm dứt. Không một sự sống mới nào có thể thoát thai từ đống tro tàn của bạn, các phân tử của bạn không thể tái sử dụng. Giống như chữ cuối cùng trong một quyển tiểu thuyết, bạn không chỉ cảm thấy cái chết mà là sự tận thế của tồn tại!

(Đoạn đầu của COULD TIME END, tạp chí Scientific American – số đặc biệt tháng 9 năm 2010 (chủ đề: Sự kết thúc – the end.), trang 66/67/68)



Bài viết còn khá dài, nhưng tôi không xin phép để dịch toàn bộ vì vậy chỉ có thể phỏng dịch một phần cốt lõi. Phần còn lại trình bày những kịch bản khác nhau có thể có về chuyển động của thời gian tương ứng với sự co dãn của vũ trụ. Có thể kim đồng hồ sẽ dao động qua lại không xác định, có thể kim đồng hồ sẽ quay ngược để "tương lai" là cái gì đó xảy ra trước "quá khứ" hoặc thời gian hoàn toàn mất ý nghĩa. Tư duy, và do đó là ngôn ngữ, khi đó có mang một ý nghĩa nào không? Và khi vũ trụ hoàn toàn sụp đổ thì cái gì còn lại? Cái gì là bất biến trong nhịp thở tồn tại – hư vô? Trong vũ trụ thì không có chỗ nào cho thần linh hay thượng đế - điều đó rõ rồi - cái gì sẽ nối kết giữa hai bờ Sắc Không?


Thứ Năm, 23 tháng 9, 2010

GIỮA THU

...
Trăng vằng vặc, gió mát thổi qua bầu trời trong vắt. Hiếm khi đêm rằm trung thu đẹp như thế này. Tôi ngồi lâu mãi ngoài sân không muốn vào nhà, hồn tôi rất êm tựa chiếc thuyền trôi vô định trong biển an lạc. Sương lạnh thấm vào da thịt làm tôi tan ra, hoà vào ánh ngà hư ảo. Tôi quên hết để lòng tôi rung với nhịp thở của bao la. Hoa đêm phất phơ thơm mơ hồ. Hương đêm dìu tôi đi… Nhè nhẹ, tôi nhấc mình lên lơ lửng, bay êm đềm như một chút mây tơ tĩnh lặng.

(Đêm rằm trung thu, 2010)

Thứ Hai, 20 tháng 9, 2010

Rước đèn tháng tám

Cho những ai hạnh phúc
 vì giữ mãi được tâm hồn non trẻ.




Chủ Nhật, 19 tháng 9, 2010

NÓI CHUYỆN VỚI MA.

Ngồi buồn nói chuyện với ma chơi.
Thơ thẩn nghe ma tỏ mấy lời.

Lão Tư hay nói chuyện với ma. Hàng xóm của lão kháo nhau như vậy để dọa mấy đứa trẻ hay vô vườn của lão hái trộm. Nhưng đó là chuyện xưa, vì bây giờ lão đã là ma rồi, không còn nghi ngờ gì nữa việc lão nói chuyện với ma.

Cục đất chỗ lão ở dễ sợ lắm. Ban đêm muốn tới nhà lão ai cũng ngại ngần. Phải đi qua một con đường nhỏ quanh co dài hụt hơi. Hai bên đường cũng có vài căn nhà nhưng do khu đất đó trước đây vốn là nghĩa địa được giải tỏa nên còn nhiều nhiều chỗ cỏ dại mọc um tùm. Cuối con đường có một cái miếu nhỏ phủ phía trước tấm màn che đỏ lòm, dòm vô trong thấy một bát nhang cắm đầy nhóc chân nhang. Trong miếu có một đôi câu đối chữ nho mà xóm giềng chẳng ai còn biết đọc, chẳng biết miếu thờ ai nhưng ai cũng e dè kẻ khuất mày khuất mặt nên nhang đèn cũng không đến nỗi hoang lạnh. Sập tối nào lão cũng ra thắp một ngọn đèn dầu tù mù đặt gần bát nhang. Trong đêm tối nhìn vô cái miếu hồng hồng mờ ảo ai cũng ớn lạnh.

Vườn của lão bắt đầu từ chỗ cái miếu cho tới bờ kinh. Căn nhà của lão ở cuối vườn, phía sau một rừng chuối xiêm và mít tố nữ. Lão sống hiu hắt với đứa con gái thất tình dở khôn dở dại. Lão lại còn cái bệnh đái tháo đường trầm kha, chân cẳng hay sưng phù nên ít muốn đi đâu. Lão chỉ qua lại với cuộc đời ào ạt ngoài kia bằng mấy xấp vé số còn thế giới thực của lão chỉ là quanh quẩn trong khu vườn. Nói đáng tội, xóm giềng cũng có cho lão kéo về nhà một cái bóng điện. Lão để cái bóng đèn trắng ởn đó sáng suốt đêm mặc cho trước đây bà lão vẫn than phiền về tiền điện mỗi tháng.

Hầu như ban đêm lão không ngủ, đi đi lại lại âm thầm quanh quẩn. Một hồi thấy bóng lão bên song cửa, chút xíu lại thấy lão lặng lẽ cù rù bên vách sau, chẳng biết để làm gì! Đứa con gái đêm nào cũng mớ khóc gọi ú ớ tên tình nhân giữa tiếng ho khan sù sụ vì lạnh của lão. Ai hỏi vì sao không ngủ thì lão chỉ nói gọn tại không buồn ngủ. Mà nhân gian cũng kì, vì sao lại nói buồn ngủ? Người ta có vui, có thơ thới trong lòng thì mới ngủ ngon được. Còn như lão - trăm nỗi muộn phiền , buồn đâu từ đời ông bà ông vải truyền lại - buồn thì làm sao mà ngủ được! Không ngủ được thì làm gì trong đêm vắng đây? Không biết từ hồi nào lão lại mắc cái chứng độc thoại trong đêm. Hồi sinh thời bà lão hay càm ràm chuyện lão rù rì trong đêm nhưng từ khi bị lão quát: - Nói chuyện với cái đầu gối mà cũng bị bà cấm nữa hả! thì bà lão mặc kệ.

Đêm nay lão lại không ngủ. Lão ngồi bên cửa sổ mở ra vườn. Ngoài vườn tối om. Đêm im ắng, trừ tiếng gió chướng đi xào xạc trên ngọn cây - Để cửa mở cho mát mẻ, lão thường nói vậy. Lão thương con quá đổi, thấy con nhỏ đau khổ lão đứt từng đoạn ruột. Nhưng chuyện duyên số mà, cái dây xích thằng đâu phải muốn buộc vô ai cũng được. Mình thương người ta mà người ta không thương mình thì thôi! Đó là lão nghĩ như vậy nhưng cô con gái lại không chịu thế, bằng chứng là cô lại ú ớ nói mê kìa. Đã nói chuyện tình mà … dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Không biết cô nằm mơ thấy gì nhưng gương mặt của cô trong mơ nhíu lại một nét âu sầu khó tả. Cứ thức suốt như lão thì có khỏe hơn không, khỏi phải chịu đựng các giấc mơ nặng nề.
Nhiều người sợ bóng đêm. Cũng phải thôi vì trong cái tối đen yên lặng, cô quạnh đầy đe doạ kia biết đâu chừng có bóng dáng mơ hồ nào đang rình rập. Có khi cái bóng ấy bỗng hiện ra, cười ngặt nghẻo và nhảy xồ tới tóm lấy mình thì sao? Nhưng lão thì không sợ điều đó. Mọi người đều ngủ, chỉ có một lão thức giữa tiếng côn trùng rỉ rả. Lão vượt qua sự cô quạnh bằng cách thầm thì với bà lão. Bây giờ dù lão có lắm lời đi nữa thì bà ấy cũng không than phiền lão được. Quá khứ chẳng bao giờ lên tiếng than phiền và bà ấy đã là quá khứ mấy năm nay rồi!
Hồi bà lão còn sống thì bà ấy gây cho lão nhiều sự khó chịu, nhưng bây giờ thì không, thậm chí lão còn thấy bà ấy dễ thương như hồi hai người mới gặp. Như hồi sáng này đây lão đã rọc một mớ lá chuối đem phơi dôm dốp để gói bánh làm giổ cho bà ấy nhưng rồi lão có gói được đâu. Nạo mới có nửa trái dừa mà trái tim già cỗi của lão đã đập thình thịch khiến lão còn để đống lá chuối trên bàn kia, từ bỏ ý định làm bánh. Lão chỉ nấu mâm cơm với tô canh chua chay và dĩa cá hủng hỉnh kho khô bày lên bàn thờ. Chẳng thấy bà ấy càu nhàu gì!
Cọm rọm thắp nén hương, lão ngó nghiêng tấm ảnh duy nhất còn lại của bà lão. Khói hương mờ bay lởn vởn trong bóng đêm, trên đốm hương ngun ngún cọng than hương cuộn tròn che gương mặt của cô gái trong ảnh. Bà ấy về đấy mà, lão tin như vậy. Lão ngó nghiêng tấm ảnh, lẩm bẩm:


- Hồi xưa bà đẹp quá hả?
- Xưa nay gì! Nghe lời đi theo ông để mệt suốt một đời rồi.
- Thì tôi cũng cố làm ăn lắm, bà biết rồi…
- Đã dặn ông đừng có phơi nắng phơi mưa như vậy…
- Thì cũng chút đỉnh thôi. Bán vé số mà ngồi trong mát thì ai mua cho hả bà!?
- Ông dắt con nhỏ đi cùng kinh như vậy tội nghiệp nó!
- Thì để nó ở nhà tui không yên tâm. Tui đi theo nó chớ có dắt nó đi đâu mà bà… Chỉ đi gần gần thôi, cái chân tôi thì đi đâu xa…!
- Con gái mình đẹp mà ông để con nhỏ mất duyên, người ta phụ bạc.
- Tại cái số chớ có phải tại tôi đâu….
- …
- Tôi không làm bánh cho bà được…
- Ông có để ý học làm gì đâu. Hồi đó chỉ có con nhỏ phụ với tôi. Vất vã với gánh bánh! Ông đi biền biệt…
- Giặc giã thì tôi phải đi, còn yên rồi thì cũng phải lặn lội kiếm sống chớ có phải bỏ hai mẹ con bà đâu…
- Bàn tay của ông không khéo mà ông cũng chỉ biết ít cái chữ thôi…
- Cái chữ của tôi ít thì tôi phải dùng bàn tay bàn chân thôi…
- Ông không biết gói bánh…
- Bà giỏi a! Như vầy phải không?
- Không phải, học ăn học nói học gói học mở, cái gì ông cũng lọng cọng…
- Gói làm sao? Mở làm sao?


Chỉ đến sáng khi con gái lão thức dậy, gọi mãi không thấy lão Tư đâu, đi ra sau nhà chỗ cái sàn nước thì thấy lão đã chết cóng ở đó từ hồi nào. Trên mặt sàn nước còn mấy cái bánh ú ướt sương đêm. Người ta nói - chẳng có ai kiểm chứng được – khi mở mấy cái bánh ú đó ra chỉ thấy toàn là đất và nước.

Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010

Trăng

...
Quơ mái chèo
Trăng vỡ
Tưởng thuyền trôi bơ vơ

Lặng im
Nghe sương động
Trăng lại tròn bao giờ

Chủ Nhật, 5 tháng 9, 2010

PHẬT PHÁP

...
Meditation 4.

Cái nghề gõ đầu trẻ coi bộ dễ mà khó! Không dễ sao xã hội có một thời truyền tụng câu “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Không dễ sao lão đại ca Cao Thoại Châu hồi còn nấn ná trong nghề một hôm thấy học sinh của mình rắp ranh thi vào sư phạm thì lòng có hơi mừng bèn hỏi tại sao em chọn nghề giáo. Em cũng bèn kính cẩn trả lời tôn sư rằng tại vì em học dở quá, chỉ có chọn vào sư phạm và chọn môn văn thì mới có chút hy vọng! Hỡi ơi lão tôn sư khi không bỗng thấy mình như bị ai nhét cái hột cóc chấm muối ớt vô cuống họng. Kể từ đó mỗi khi nhắc tới nghề gõ đầu trẻ là lão đại ca đầu óc lùng bùng ấm ức, viết bằng cái giọng chuối sống ăn với khế xanh! (Việc này tiểu đệ nhớ mang máng là lão đại ca có kể như thế. Nếu không có cũng xin đại ca bỏ quá cho!).
Nhưng nhắc tới chuyện gõ đầu trẻ cũng để lấy cớ mà nói chuyện khác thôi. Cái nghề đó không dễ ở chỗ: Đã làm thầy giáo thì có hai việc không được vi phạm: Đạo đức của nghề thầy và… thầy không được nói sai, nói dóc! Nói học trò không nhớ lời thày giảng, cứ nghe lỗ tai bên này là chạy tọt rơi ra ngoài lỗ tai bên kia như nước đổ lá môn là sai. Học trò tụi nó nhớ lời thầy giảng một cách kinh khủng. Tệ hạ từng gặp một em học trò cũ 30 năm sau nhắc lại vanh vách nguyên văn hồi đó, giờ học đó thầy đã nói cái gì. Thầy nghe em đó nhắc lại chuyện xưa mà dựng cả tóc gáy! Tự nhủ thầm: Mô Phật, không biết hồi đó có khi nào mình nói sai cái gì không!?
Ấy vậy mà khi xem xét lại thì cũng thấy mình có lần đã hùng hồn giảng sai. Mà giảng sai suốt cả hai năm học mới khổ chứ! Việc là một hôm cô Phó Phòng Đào Tạo gọi tệ hạ lên yêu cầu dạy một môn có tên là: Khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Đang khi ngồi lập trình yên ổn lại bị vướng vào nợ oan gia, từ chối như thế nào cũng không được! Cô đưa cho một tờ giấy A4 in chương trình sơ lược của môn đó, đâu được vỏn vẹn có 15 dòng! Hỏi có tài liệu dạy học gì nữa không? Trả lời: Không! Tự anh xây dựng chương trình chi tiết và soạn giáo trình để dạy á! Cho anh 5 tuần để chuẩn bị!
Khổ cái thân! Thế là phải chạy đôn chạy đáo vào mấy cái thư viện. Lại phải chạy lên Sài thành lục lọi tiệm sách lớn, tiệm sách nhỏ các tài liệu có liên quan. Đi hỏi ông Wikipedia xem mấy ngài hàn lâm phân loại khoa học như thế nào. Đọc lại “Biện chứng của Tự nhiên” của ông F. Engel, đọc lại ba cái phạm trù gì gì đó của ông Karl Marx. Ôm kè kè mỗi đêm cuốn sách dày cộp hơn một nghìn trang “Lịch sử văn minh nhân loại” của Caroline F. Ware, v.v. và v.v.. Tiêu hoá vội vàng một khối lượng kiến thức đồ sộ để… ói ra!
Nói chung sau hai năm học dạy môn đó thì thấy cũng được, không thấy ai than phiền điều gì, sinh viên ra trường yên ổn cả. Phòng Đào Tạo chẳng có ý kiến gì (biết gì đâu mà ý kiến!). Cớ sự ở chỗ để bắt đầu môn học đó thì phải định nghĩa trước hết “văn minh” là cái gì vậy. Ừa, thì cho có vẻ tây tàu một chút văn minh tức là civilisation, văn hoá tức là culture, là là… Mở từ điển tiếng Việt ra xem thế nào. Mở từ điển Larousse coi anh Tây ảnh nói làm sao. Cứ thế mà yên chí!
Ba bốn năm sau, có một dịp gặp lại Tổ sư. Tổ sư đây là thầy Nguyễn Đăng Phu, là thầy dạy của tệ hạ ngày xưa, là người mà tệ hạ vô cùng kính trọng. Thầy hỏi tệ hạ đã dạy cái gì vậy. Tệ hạ thiệt tình nói đã dạy như thế như thế… Thầy yên lặng một lúc mới hỏi vậy chớ tệ hạ hiểu chữ “văn” có nghĩa là gì không? Thưa thầy, quả thực con cũng chưa rõ! Thầy ôn tồn giảng cho hai tiếng đồng hồ chỉ có mỗi một chữ “văn”. Thầy thì ôn tồn mà trò thì nghe như sấm nổ bên tai, choáng váng vì hoá ra mình đã nói sai với đám sinh viên tất tần tật. Hoá ra cái chuyện đứt mạch văn hoá nó nghiêm trọng quá chừng, nó ăn sâu vào cái cách mà mình suy nghĩ. Vấn đề không phải là mình suy nghĩ về cái gì mà là cách mình suy nghĩ về vấn đề đó. Hoá ra bây giờ mình suy nghĩ theo cái đầu của phương tây chớ không phải theo cái tâm mà ông bà đã ban tặng cho mình. Hoá ra văn minh thì không phải là civilisation!
Nhưng (lại chữ nhưng) phản bổn hoàn nguyên là chuyện cực kì khó khăn! Cái hồi ta rần rần mừng rỡ vứt bút lông đi lấy bút chì, cái hồi ta thầm cảm ơn ông Alexandre de Rhode và đức cha Pigneau de Béhaine đã xây dựng chữ “quốc ngữ” giúp dân ta có thể nhanh chóng biết đọc, biết viết tiếng Việt, chứ không như cái anh China khổ sở học tiếng China cả đời chưa chắc viết được hết tiếng China, thì ta quên một chuyện. Chuyện đó là bây giờ thì ta đọc mọi thứ rất dễ, trừ đọc lại di sản tinh thần của ông cha! Đã nói là ta đứt mạch văn hoá mà!

Thứ Năm, 2 tháng 9, 2010

PHẬT PHÁP

...
Meditation 3

Động Tà Nguyệt Tam Tinh,
một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời
Bữa trước mơ thấy chạy chơi trong vườn lý, đường phải trái như mạng nhện, cứ chực bị đi lạc. Vườn lý có biết bao nhiêu quả chín, nhiều như trong vườn đào tiên của bà Tây vương mẫu, nhưng nếm thử trái nào cũng thấy chua! Trái lý với phải lý thật là không dễ phân biệt. Xảy đâu gặp con khỉ già Tề Thiên đang cười khọt khẹt bèn hỏi luôn: Ê chỗ nào quả ngọt chỉ cái coi! Bị Tề Thiên quơ thước bảng gõ vô đầu cái cộp. May không bể cái đầu. Lão khỉ lấp lững nói: Chỗ nào hồi đó gieo cái nhân to, cái hột bự thì bây giờ cây ở đó có quả tốt chứ gì. Có trời mới biết trong vườn rộng như vậy chỗ đất nào đã gieo cái nhân tốt. Đang còn bán tín bán nghi, sợ đi lạng quạng trong vườn không gặp được Tổ sư Bồ Đề mà lại lọt vô động Bàng Tơ thì biết đã à nghe! Xem coi bộ tại hạ dùng dằng ngán ngẫm vì nổi đường xa khó đi nên hầu vương mới nói nhỏ: Gần thôi mà! Nè đi theo hướng núi Linh Đài, tới chỗ động Tà Nguyệt Tam Tinh, chỗ đó đó…
Quay bên phải, ngó bên trái, nhướng lên núi cao, nhìn xuống lũng sâu thấy mờ mờ động Tà Nguyệt Tam Tinh, chừng như xa lắm, không rõ hình dạng. Hỏi lão khỉ vậy chớ cái động ấy ở bên ngoài hay bên trong vườn lý? Lão lại hỏi ngược móc họng: Ngươi biết phép cân đẩu vân không? Trời! Tại hạ mà biết được chết liền. Mới nói gần thôi mà, bây giờ đòi phải biết cân đẩu vân, lộn xộn quá! Lão khỉ nói: Vậy thì nói cho ngươi biết, cái động ấy không ở ngoài mà cũng không ở trong. Nghe hầu vương chỉ đường mà rớt mồ hôi hột, tỉnh dậy liền, không dám mơ nữa!

Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010

PHẬT PHÁP

.
Meditation 2.

Không gian các thành tựu khoa học bao gồm các khái niệm, tiên đề, bổ đề, định lý, định luật, hệ quả, tính chất, các ứng dụng kỹ thuật, v.v.. dù được diễn đạt dưới dạng bạch văn hay dưới dạng công thức, bảng biểu, chương trình máy tính nào đi nữa thì tất cả các thứ đó đều là tổ hợp của các mệnh đề, là thứ phải được chắc chắn rằng tính đúng sai rõ ràng! À ra thế, cái không gian đó là một không gian hai chiều được sinh trên bộ vectơ cơ sở {Đúng, Sai}. Không gian đó dù có vĩ đại đến như thế nào đi nữa thì cũng là một không gian phẳng hai chiều. Nhưng cuộc sống thì không phẳng, nó không chỉ có các mệnh đề, không chỉ có lý lẽ, không phải bao giờ cũng lượng hoá được sự đúng sai, chưa nói đến tính đúng sai của các mệnh đề còn phụ thuộc vào tập vũ trụ mà nó qui chiếu vào! Người ta cũng có thể chống đỡ cho những lựa chọn không chắc lắm của mình trong cuộc đời bằng cách dựa vào một thứ gọi là logic mờ (fuzzy logic), nói đúng là đúng bao nhiêu phần trăm, nói sai là sai bao nhiêu phần trăm, tức là rốt cuộc phải dựa vào những thứ xác suất ngẫu nhiên thực ra không ngẫu nhiên tí nào! Mà khoa học về sác xuất thì rành rành là một ngành toán học. Toán học thì chưa bao giờ bước chân ra khỏi nhị nguyên luận cả! Vậy thì có một cái không gian được sinh ra trên bộ vectơ cơ sở có số chiều còn lớn hơn hai, mà không gian các thành tựu khoa học vĩ đại kia chỉ là một không gian con khiêm tốn của nó mà thôi! Ơ hơ… con người và các thành tựu nhận thức khoa học của nó – dĩ nhiên là đàng hoàng đứng đắn một nước – hoá ra chỉ là một phần rất nhỏ của các nhận thức về tự nhiên. Bởi vì con người, dù cho nó có đủ thứ thiết bị máy đo, dù cho nó có đủ thứ cảm biến độ nhạy siêu việt, dù cho nó sẽ chế tạo ra thứ máy đo nào đi nữa, hoặc xây dựng được lý thuyết về độ đo nào đi nữa, thì rồi tất cả các thứ đó chỉ có thể được nhận thức bởi con người khi biến nó thành các chỉ số hiển thị nhận thức được qua các giác quan của con người, ie: nhãn nhỉ tỉ thiệt thân ý. Các thứ đó rồi sẽ trở thành nhận thức qua quá trình bất biến “sắc-thọ-tưởng-hành-thức”. Và nó bị giam trong quá trình nhận thức đó, bởi chính quá trình nhận thức đó! Nhận thức của con người về vũ trụ - và do đó là nhân sinh quan - phụ thuộc vào cách mà nó sử dụng được phương tiện nào để định tính và định lượng vũ trụ. Vũ trụ trong quan niệm của người Trung quốc chẳng hạn: Tứ phương thượng hạ viết vũ, vãng lai cổ kim viết trụ. Vũ trụ gồm không-thời gian đó, phản ánh sự qui chiếu đơn thuần cảm giác đơn thuần của con người về vũ trụ bởi các giác quan, rồi sẽ phản ánh vào nhân sinh quan của nó. Không gian gồm bốn phương trên dưới, thời gian là một dòng chảy bất diệt, đều đặn, không cùng trong quá khứ và trong tương lai:

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế hạ! (*)
Nhưng rồi năm tháng trôi qua, phương tiện đo tối tân hơn, làm “nảy nòi” ra cái ông Einstein, một ngày lộng lẫy nào đó bỗng thấy rằng thật ra thời gian có thể co lại hay dãn ra. Đàng hoàng trở về một ông Từ Thức, đi lạc cõi tiên đâu có mấy ngày, mà sao trong cõi người ta phải chờ đợi mấy trăm năm bây giờ mới gặp lại! Và trong thời ông Einstein thì vũ trụ chẳng biết đâu là tứ phương trên dưới nữa, có chăng là chỉ dựa vào con quay hồi chuyển (gyroscope) để con ong xác định đường đi lối về cho khỏi lạc giữa muôn hoa!
Rồi thời hiện đại lại đẻ ra cái ông Stephen W. Hawking ngó nghiêng trước sau, tìm mãi chẳng thấy thượng đế ngự ở chỗ nào trong vũ trụ. Dò mãi trên đường thời gian mới phát hiện thấy con đường ấy tuyệt lộ ở một đầu quá khứ, còn đầu tương lai thì không biết liệu có một phép nghịch đảo nào đó làm cho nó quay lại chốn ban đầu hay không?
Vậy đó, không có cái gì bền vững ngoại trừ sự thay đổi, ngoại trừ sự vận động, kể cả các thứ thành tựu khoa học. Cái gì cũng vô thường trừ bản thân sự vô thường.

(*) Đăng U châu đài ca của Trần Tử Ngang
Trần Trọng San dịch như vầy:
Bài ca lên đài U châu

Ngoảnh lại trước: người xưa vắng vẻ;
Trông về sau: quạnh quẽ người sau.
Ngẫm hay trời đất dài lâu,
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.

(Hình như tôi đã đi quá xa so với vấn nạn ban đầu,
và những thứ này chắc cũng không mấy thích thú nếu không nói có thể gây dị ứng.
Viết xong đoạn này tôi có ý định dời nó qua một cái blog khác
nhưng như thế thì có vẻ như đánh trống bỏ dùi.
Thôi, đã lỡ nhảy xuống sông thì phải ráng bơi để khỏi chết chìm!
)

Thứ Hai, 30 tháng 8, 2010

PHẬT PHÁP

...
Phật pháp thậm thâm vi diệu.
Meditation 1.

Có người bỗng nhiên đặt cho tôi một câu hỏi: Anh Bình, anh tin có linh hồn không? Dĩ nhiên trong niềm tin của tôi thì tôi trả lời: Có chứ! Thế người đó lại nói tiếp: Vậy anh duy tâm rồi! Tôi lại nói tiếp: Không! Tôi là người duy vật.
Có hay không có linh hồn? Câu hỏi thật là lớn quá. Lớn đến nỗi đó là câu hỏi ám ảnh nhân gian suốt lịch sử loài người, không chừa bất kì ai từ vua quan cho đến cùng đinh thứ dân, từ kẻ trí tuệ sáng suốt đến kẻ ngu ngơ khờ dại, từ người hiền nhân đến kẻ ác tà. Có chăng chỉ có người điên – nhưng tôi không chắc lắm – mới không đặt ra câu hỏi đó! Đơn giản là kiếp nhân sinh rồi cũng dẫn mọi người kia về đến chỗ tận cùng không cùng, đối diện với cái phủ định tuyệt đối không có phủ định lần thứ hai, không có (không (không A)) là A, là cái chết! Và ai cũng muốn biết đằng sau lần phủ định ghê gớm kia là cái gì nữa! Có lẽ đó cũng là câu hỏi mà “khoa học” – hiểu theo nghĩa hiện thời – vĩnh viễn không khi nào có câu trả lời, bất khả tư nghì! Khoa học – cho tới nay - là đường gươm cực kì sắc bén có thể rạch toang gần như mọi màn đêm các u minh ám chướng để cho con người bước ra ánh sáng của nhận thức. Nhưng, chữ nhưng này nằm đúng ngay hàng rào vững chắc của khoa học, nơi chỗ chủ nghĩa duy nghiệm và chủ nghĩa duy lí chống đở cho mọi mê lầm không xâm nhập được vào lâu đài khoa học, nơi mà nhị nguyên luận loại trừ không thương tiếc mọi lấp lững ba phải để cho mọi nhận thức đều được sáng sủa phân minh. Nếu khoa học là đường gươm sắc bén của nhận thức thì câu hỏi này đặt ngay trên cán gươm. Ô hô… không có con dao bén nào có thể gọt được chính cán dao cả!
Vì sao vậy!? Không gian các thành tựu khoa học, kể cả các thành tựu khoa học gần đây nhất của máy tính, của công nghệ thông tin đều phải đặt trên nền tảng nhị nguyên luận, và phát sinh (generate) từ trên nền tảng đó. Ngành khoa học nào cũng phải dựa trên toán học, trên nhị nguyên luận trong cái logic của nó. Đâm đầu vào logic học là đâm đầu vào hố thẳm của tư tưởng. Khoa học có thể đạt tới nhận thức về nguồn gốc phát sinh vũ trụ, về l‎ý thuyết big bang. Trong lý thuyết đó, ngay đúng trước vụ nổ, toàn thể vũ trụ chỉ là một điểm. Vũ trụ là một điểm và một điểm là toàn thể vũ trụ. Một điểm đúng như khái niệm điểm trong toán học, nghĩa là cái gì đó không có bề dầy, không có bề rộng, không có kích thước. Kể từ đó mới có thời gian. Vì thời gian không phải là cái gì khác ngoại trừ sự vận động. Tới đây thì khoa học gặp phải những câu hỏi nghiêm trọng. Đại loại như thực ra có hay không có thời gian? Tại sao con người nhận thức được cái gọi là “hiện tại” trong khi thực tế hiện tại là cái không tồn tại bao giờ mà chỉ có cái đã qua và cái sắp tới mà thôi. Ở ngay cái cán dao đó là một nhận thức khác: Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Đúng ngay nơi đó thời gian bắt đầu và thời gian không tồn tại. Đúng ngay nơi đó vũ trụ tồn tại và vũ trụ chưa hình thành. Trong mỗi lỗ đen vũ trụ có gì? Không có gì vì thông tin không thể thoát ra khỏi lỗ đen nhưng cũng chính trong lỗ đen nguyên thuỷ là tất cả, từ đó nở bung vũ trụ. Đúng ngay nơi đó ta buộc phải luận nhị nguyên về cái gọi là nhị nguyên luận.

Vậy tôi đang phủ định khoa học chăng!? Không phải!
Nhưng bây giờ thì quá khuya rồi. Phải đi ngủ thôi. Rồi tôi sẽ viết tiếp

Thứ Ba, 24 tháng 8, 2010

MƯA QUÊ VÀ MƯA THÀNH

...
Ô hô! Hôm nay ông bạn già tôi ai oán quá đổi. Chuyện có gì đâu mà “sân si”! Đó là lời bà vợ của ông bạn tôi nói lại. Chuyện có gì đâu mà sân si! Ừa, bà ấy là phật tử mộ đạo và thuộc lòng bài kinh bát nhã. Bả nhắc ông bạn của tôi, tức là chồng bả: Nè! Thôi đi, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố! Hì hì… thì ông bạn tôi sợ Phật một nhưng sợ… vợ tới không biết bao nhiêu lần nên đành trợn trạo nuốt cái cục giận xuống bao tử, ruột gan cồn cào cháy bỏng, quay đầu xe chạy về Bến Tre một nước!
***
Chuyện có gì đâu!
Là hai vợ chồng ông bạn tôi có ông bạn ở xứ người. Tình cố lý mến thương đã nhiều năm. Lại là bạn học từ thời thanh xuân. Bây giờ đầu đã bạc nhưng vẫn giữ liên lạc, chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Thỉnh thoảng người ở xa xứ kia cũng có tấm lòng gởi về quê xứ ít tiền quà để hai vợ chồng ông bạn tôi đi làm từ thiện giúp. Mà hai vợ chồng ông bạn tôi vì dù nghèo thì nghèo thật nhưng tình thương người thì không thiếu. Cái câu bầu ơi thương lấy bí cùng hay cái câu lá lành đùm lá rách một dạ đinh ninh thuộc lòng. Vài hôm lại xếp việc nhà, bỏ bửa chợ để đi làm từ thiện theo nguyện vọng của người xa. Nói về cái tính thương người thì ông bạn tôi – dù có một thời chiến tranh chơi với súng đạn chiến trường - một khi đã bỏ cây súng xuống thì, nói như kinh Phật, quay đầu là bờ, nên hiền lành như đất. Mà đất quê ta hiền lành thật! Con người chơn chất thật! Tôi nhớ hồi nhỏ ở cái xứ Cà Mau heo hút nhà người ta không có vách, trước nhà có cái lu sành nho nhỏ chứa nước mưa để bá tánh thập phương ai có lở độ đường khát nước thì có mà uống (Hình như bây giờ Coca Cola và Pepsi nhiều quá, sẵn quá nên tôi chẳng thấy cái lu sành ấy nữa), mà có lở độ đường ghé nhà người ta hú một tiếng chủ nhà chạy về ra mắt là được. Còn nếu muốn ở lại vài hôm thì người ta cũng sẵn lòng nhường cho chiếc nóp, đãi vài bữa cơm hoàn toàn miễn phí. Xứ ấy cá mắm thiếu gì, ngó xuống bàn chân là thấy ngọn rau, lấy rổ xúc quơ dưới nước là có mấy con cá, đãi khách vài bữa cơm thì có nghèo thêm chút nào đâu, tính toán làm gì? Người ta có khi cũng chẳng hỏi khách là ai, vì sao lưu lạc ở chốn cùng trời cuối đất. Tía tôi giải thích chuyện đó như vầy: Tới cái đất này chỉ có ba hạng người: Hạng thứ nhất nghèo rớt mồng tơi, trốn nợ nên mới tới đây. Hạng thứ hai là hạng trốn tù, chạy vô tới đây – trên là trời cao, dưới là đất rừng rộng mênh mông - dễ gì biết nơi nào mà kiếm. Hạng thứ ba là hạng người làm quốc sự - đầu đội trời chân đạp đất như không – nhưng khó nêu danh tính. Cả ba hạng người đó đừng hỏi danh tính chi cho mất công! Là người với nhau cả, thì cứ lấy tình người mà đãi thôi! Đất Bến Tre không như xứ Cà Mau xưa nhưng cũng là cái xứ hiếu khách. Ông cậu tôi ở Bến Tre có câu nói vui lắm mỗi khi mời khách: Ừa, tới nhà tui chơi đi, tình thương mến thương mà, dù cho ơ bể cũng ráng kêu cạch cạch, đừng lo! Trưa nắng ai lở độ đường ghé hỏi thăm cũng xởi lởi mời vô nhà uống miếng trà cho khoẻ rồi muốn đi tiếp đâu thì đi, gặp lúc trời mưa thì sai con bắc cái ghế ra mời khách ngồi đụt mưa. Ối, mưa ở ruộng, mưa trắng đồng, buồn muốn chết! Vũ vô kiềm toả năng lưu khách mà, đỡ buồn!
Tôi nói lung tung xa quá gần lạc đề rồi! Trở lại chuyện hai vợ chồng ông bạn tôi - mới đây thôi - có nghe ông bạn xa xứ kia nhắn có người bạn ở bển về sẽ ghé ngang thăm. Hai vợ chồng - mặc dù văn kì thinh, lần đầu kiến kì hình – nghe nói bạn thân của bạn bèn tiếp đãi ân cần chu đáo lắm. Theo cái kiểu chịu chơi thiệp liệp, hào hiệp tứ hải giai huynh đệ! Chẳng phải tại vì bạn có tiền quà nước ngoài gì đâu, xin đừng có hiểu lầm! Hai vợ chồng ông bạn tôi sống theo cái kiểu nhà quê, tiền tài như phấn thổ, nhơn nghĩa tợ thiên kim. Ấy là tại vì câu nhơn nghĩa mà thôi!
Lại mới đây, nghe một người bạn của bạn ở bên ấy bị bệnh nan y, gan bị K, bác sĩ chê rồi! Lại nghe anh của người bệnh sắp bay qua bển sẽ ghé chỗ ông bạn nối khố. Thương bạn thương luôn… bạn của bạn. Sẳn có bài thuốc quí, cho vài người cùng chứng bệnh uống rồi, kể cả người trong nhà, vài người hết bệnh, vài người mười phần đở tới tám chín bèn muốn làm phước. Làm phước thôi chớ chẳng lấy xu nào. Thày dặn rồi, thuốc này làm phước, không được lấy tiền! Lấy tiền của con bệnh là tai hoạ tới với mình liền! Bèn ngâm một chai rượu thuốc đủ ngày, sớm bửng bạn già khoác chiếc áo phong sương, chở bà vợ bằng chiếc xe cà tàng chạy lên Saigon kiếm địa chỉ để gởi.
Saigon đô hội, xe đông như ổ mối, áo quần như nêm, rần rần ào ào, nhà cửa địa chỉ lộn xộn như ma trận càn khôn, đường cao đường thấp, lô cốt hố ga rình rập, bửa nay đường hai chiều ngày mai lại thành đường một chiều, nay đúng mai sai không biết đâu mà lường. Phố phường nắng thì nghẹt khói, mưa thì chạy dưới sông, luôn luôn có cái mùi hôi thối đặc trưng. Hôi thật đấy, đến nỗi có lần đi xe đêm từ Trảng Bom về Bến Tre đang lơ mơ ngủ vì mệt mỏi bị đứa nhỏ khều dậy hỏi: Ông ơi ông, tới đâu đây ông? Mắt nhắm mắt mở trả lời: Tới Saigon! Sao ông biết? Nghe cái mùi hôi là biết. Ở Saigon lâu đứng gần người ta là người ta biết mình là dân Saigon liền hà! Giống như chạy ngang Phan Thiết là biết liền mùi thơm nước mắm vậy! Hai vợ chồng bạn già chạy từ Bến Tre lên tới Bình Chánh thì không thấy mệt nhưng qua khỏi Bình Chánh là hai cái buồng phổi già và hai trái tim già ngất ngư ngầy ngật như bị trúng gió! Vậy mà phải chạy lòng vòng tới trưa đứng bóng mới kiếm được cái nhà. Là nhà anh của người bệnh. Cái nhà thiệt đẹp, cái cổng cũng đẹp luôn.
Mưa Saigon! Khi không cái mưa ào ào. Hai vợ chồng tới trước cổng, mưa rào rào trên hai cái đầu bạc. Trong nhà một cô đội nón chạy ra, áo quần đẹp đẽ, đứng sau cổng hỏi trời mưa mà muốn kiếm ai. Thì thiệt tình nói tụi tui ở dưới quê mới lên kiếm chỗ nhà cô đây để gởi tặng chai thuốc. Cô nhỏ thò tay qua cái lỗ ở cổng lấy chai thuốc, nói… Được! Cô nhỏ nghiêng đầu nhìn qua cổng nói bâng quơ: Mưa lớn quá hé! Rồi cô nhỏ chạy vô. Rồi thôi! Hai cái đầu bạc nhìn nhau. Hỡi ơi trời đất vô cùng rộng, nhà cửa phố xá thênh thang, tầng cao tầng thấp, nhà nào cũng kín cổng cao tường, không một chốn dung thân! Hai cái đầu bạc lạnh run nép vô cái tường rào, ngó cái cổng khép kín vô tình, và thấy trên mắt người kia một giọt nước. Có lẽ chỉ có hai giọt nước đó là ấm trong cơn mưa lạnh này mà thôi!
***
Mà tôi nói với ông bạn già thôi ông ơi, tại ông nghĩ vậy chớ người ta thấy chuyện đó là bình thường mà. Thôi đi, lòng ông nghĩ vậy nên ông thấy như vậy chớ chắc cô nhỏ đó cũng là người có học, chắc cũng có một chút xíu văn hoá, không đến nỗi tệ quá đâu!

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2010

Mẹ và dòng sông.

Viết mấy dòng entry hôm qua tưng tửng nhưng nhìn vào cái hình thì lòng dạ buồn lắm, muốn khóc lắm. Bên kia sông chính là bến Cái Cối, nơi ông ngoại đã chèo đò suốt cuộc đời! Nhìn người phụ nữ chèo ghe mà như thấy lại hình ảnh của Mẹ. Hồi mình còn nhỏ nhiều hôm Mẹ cũng chèo ghe đưa mình qua sông đi học, chỉ có điều khi đó là con sông Đầm Dơi, tuốt trong Cà Mau heo hút. Chắc hồi xưa hôm nào ông ngoại mệt hay bệnh thì Mẹ cũng chèo đò thay cho ông! Có phải hình ảnh của Mẹ và chị Hai đó không!? Có phải người ta yêu quê hương từ những hình ảnh ấp ủ trong lòng như vậy không? Mùa này là mùa Vu Lan. Mẹ già như chuối ba hương… Mình thành tâm niệm Phật cầu cho Mẹ được khoẻ, sống lâu.

Cũng cảm ơn nhà báo nào
của tạp chí LIFE đã chụp tấm hình.

Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

Nghĩ vẫn vơ...


Bến tre có nhiều bến mà đâu có thấy cái bến nào có tre đâu.
Bến tre có ba người con gái đẹp.
Ở cầu Cái Cối có người con gái tên Hồng. Nàng Hồng có đôi mắt đẹp. Hàng lông mi cong vút. Tan học về làm cái đuôi của nàng tôi ngơ ngẫn thấy tại sao sông rộng mà cây cầu ngắn vậy. Nàng có chồng sớm quá không đợi tôi kịp lớn.
Ở cầu Cá Lóc có người con gái tên Phụng. Nàng có đôi bờ môi đẹp hình trái tim. Mỗi lần nhìn nàng trái tim tôi thở loạn xạ. Cứ mỗi lần nàng mở miệng là trái tim của tôi lớn thêm một chút. Tôi chưa kịp hứa với nàng điều gì thì nàng cũng đi lấy chồng.
Ở cầu Kiến Vàng có người con gái tên Hằng. Nàng đẹp trên từng centimét. Ơ hơ… Thuý Vân của ông Nguyễn Du chỉ được mỗi cái nét ngài nở nang so làm sao được bằng nàng Hằng. Đôi lông mày của nàng Hằng đẹp như hai cái càng của con kiến vàng. Đôi lông mày của nàng cắn tôi đau như bị … kiến vàng cắn. Nàng lấy chồng hồi nào tôi không hay.
Ngoại trừ ba người đẹp đó Bến Tre không còn người đẹp nào hết. Hồng Cái Cối, Phụng Cá Lóc và Hằng Kiến Vàng. Nàng nào cũng da trắng như trứng vịt do tắm nước dừa xiêm. Mấy cô khác cũng tắm nước dừa nhưng là nước dừa khô!
Hồi đó tôi ốm như cây tre miểu nên ba cô gái đó như ba cái bến không có tre. Dầu vậy tôi vẫn yêu ba cây cầu. Lạy trời đừng ai một buổi sáng thiếu cà phê nào đó âm mưu đổi tên ba cây cầu dễ thương nhất mực của tôi.
Ông Nguyễn Văn Tí chẳng biết gì về con gái Bến Tre hết. Chị Hai tôi tóc dài đến nỗi mỗi lần gội đầu phải đứng trên cái ghế đẩu, để ông anh rể chải tóc bằng dầu dừa (thơm ác). Tóc dài phết đất, búi thành một búi như củ hành. Bay trong gió đâu mà bay! Chị Hai tôi cũng đẹp nhưng không đẹp bằng ba cô Cái Cối Cá Lóc Kiến Vàng.

Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2010

ĐÔI KHI

Đôi khi
Trong đêm khuya
Giật mình nhớ ra
Bốn mươi năm
Tình cũ,
Em,
Hàng phượng đỏ,
Nắng đổ bên sông,
Tà áo dài
Đường chiều gió lộng.

***

Đôi khi
Có gì buồn
Bằng nỗi nhớ trong đêm
Ánh mắt nào
Trách móc
Ám ảnh
Một đời
Không yên giấc
Giọt mưa nào
Rơi lạnh lẻo ngoài hiên.

***

Đôi khi
Bàng hoàng
Ở hai bờ
Giấc mộng
Tay ta dài
Không đủ với tay nhau.
Gió chiều lồng lộng,
Nỗi niềm nào
Để lặng lẻ buông rơi…

Thứ Ba, 10 tháng 8, 2010

Gặp lại...


Năm 1984, về Trường CĐSP Bến Tre với một tâm trạng vừa buồn vừa vui. Buồn vì vừa rời khỏi PTTH Châu Thành với quá nhiều xung khắc, bất đồng quan điểm với nhiều người. Vào thời điểm chế độ bao cấp đang ở cao trào của nó và các quan niệm về giáo dục tưởng là tiến bộ bị các “nhân vật” - lơ mơ về giáo dục nhưng lại nhiều quyền lực - diễn giải một cách hẹp hòi, cục bộ. Khi đất nước “bị đóng cửa do cấm vận” và “tự nguyện đóng cửa do ngu dốt” đã đẩy xã hội vào khủng hoảng kinh tế, vào vực sâu đói nghèo, thì buồn bực là không thể tránh khỏi. Vui vì được giải thoát khỏi những đêm những ngày nặng trỉu ưu phiền, lo toan của người làm công tác quản lý. Vào thời điểm đó – mình còn rất trẻ, mới có 31 tuổi – nhưng đã bạc hơn 2/3 mái đầu. Cổ nhân nói “tâm sầu bạch phát” thiệt là quá đúng! Có khi chỉ qua một đêm mà mây trắng cả đầu chứ chẳng chơi. Vậy là lại được thực sự đứng trên bục giảng, thực sự cầm lại viên phấn, vui quá!
Lớp H3K8 Toán là lớp mình được phân công dạy phân môn giải tích cổ điển ngay khi về trường, vừa dạy vừa chủ nhiệm. Thày say sưa dạy và sinh viên say sưa học! Và chỉ sau một năm thì mình không còn sợi tóc bạc nào! Trong cuộc đời làm người chèo đò đưa người qua sông thì mình có một vài lớp học trò mà mình yêu mến hơn các lớp khác. H3K8 Toán là một lớp như vậy!
Hai mươi sáu năm đã trôi qua bây giờ thày trò mới có dịp họp lại. Hai mươi sáu năm xa ngái vậy mà vẫn còn nhận ra từng em. Mừng cho kí ức của mình chưa quá đổi tệ. Học trò giờ đây cũng già gần như thầy, thậm chí có đứa trông già hơn vì mái đầu đã bạc hơn thầy. Có đứa con còn bé nhưng có em sắp sửa làm sui. Và cũng có nỗi tiếc nhớ vì có em đã qua đời!
Ông lái đò mấy khi dám mong người qua đò trở lại. Cuộc sống của ai cũng còn nhiều bến bờ xa phải đi tiếp, đi tới. Khi ông lái đò đã sắp gác mái chèo trong buổi chiều tàn, vui một chút thấy người quay trở lại…

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

Một chút DALAT.

.
8 giờ 30 tối 24/7/2010.
Phố đêm trước chợ Đà Lạt
GẶP LẠI
Thành phố Đà Lạt từ lâu đã không còn xa lạ, dịp này dịp kia mình đã từng lang thang nhiều ngày các con phố cao phố thấp, ngẩn ngơ với những bụi hồng hoặc đê mê với những thứ hoa mong manh nào đó trên bãi cỏ xanh rờn trong sân của một ngôi biệt thự, quen lắm với ly sữa đậu nành nóng hổi trong không gian mơ hồ của buổi chiều lạnh, trên bờ hồ Xuân Hương, cũng như bên tách cà phê ấm và thơm trong một quán nhạc trên đường Trần Quốc Toản (không biết tại sao lại không nhớ tên quán bao giờ!), ấy vậy mà Đà Lạt vẫn không thôi quyến rũ mình trở lại. Đà Lạt giống như một cô gái dấu yêu mình quen đã lâu lắm, đến nổi có thể hình dung ra gương mặt yêu kiều của nàng khi xa vắng và nhớ rõ mùi hương dịu nhẹ rất riêng của nàng, nhưng vẫn say đắm bồi hồi khi đối diện ánh mắt và nụ cười đầy bí ẩn của nàng mỗi khi gặp lại. Không thể nào không ao ước những ngôi biệt thự nhỏ với thảm cỏ xanh đầy hoa lãng mạn trên đồi, không thể nào không say mê những rừng thông lãng đãng trong sương. Nàng từng đẹp, kiêu sa và nàng giữ vẻ xa cách đủ cho chàng lang thang không thể nào quên được!
Đến Đà Lạt là dịp để sống trong không gian mộng mơ, dù gần đây không gian ấy cũng đã bị dung tục ít nhiều. Một số con phố Đà Lạt bây giờ có vẻ gì đó của một Chợ Lớn dở hơn Chợ Lớn, và con người Đà Lạt xưa kia mình biết vốn hết sức lịch thiệp, ân cần - không phải thứ lịch sự nghề nghiệp của các cô ở quầy tiếp tân trong khách sạn mà ngay cả một cô bé bán bắp cũng có một thứ ngôn ngữ dịu dàng, ấm áp như gánh bắp luộc của cô - thì bây giờ khó gặp nữa...
***
Ba giờ sáng,
Tháp nhà thờ trong đêm sương
ĐÊM
Đêm đầu tiên trở lại Đà Lạt mình muốn đi dạo một đoạn bờ hồ Xuân Hương, nhưng hồ đã cạn khô vì đang được nạo vét và cải tạo. Muốn vòng sang bên kia bờ hồ để hy vọng được nghe nhạc Trịnh trong cái quán quen thuộc thì phải đánh một vòng khá xa, vì phải né khu vực công trình, chân lại hơi đau nên đành trở lên cái quán cao cao trên đường Minh Khai. Quán này chỉ được vẻ ngoài còn cà phê vừa mắc vừa tệ (Trình độ pha cà phê thì hạng bét. Một cái phin móp méo chảy tọt không kịp tan, cái còn lại nghẹt cứng chẳng xuống giọt nào. Cuối cùng được một thứ nước ghê ghê như vẻ băng giá của cô phục vụ...), cộng thêm thứ nhạc ồn ào tạp nham khiến người đẹp của mình phải nhíu mày. Người đẹp không phải Tây Thi nên nhíu mày thì trông chẳng ra làm sao cả, nhìn cứ y như mặt hồ Xuân Hương không có nước (!). Nản lòng quá nên chỉ chụp vội hình phố đêm Đà Lạt, cố nuốt cho xong cái gọi là cà phê rồi trở về khách sạn.

Ba giờ sáng, không ngủ được nên ra trước balcon đứng lặng nhìn trời đêm Đà Lạt. Trời lạnh nhưng sảng khoái. Trong hơi mưa nhẹ, tháp nhà thờ mờ xa huyền ảo như ở xứ thần tiên nào. Chỉ tiếc là tỉ lệ zoom của máy ảnh nhỏ quá nên những chi tiết của quầng sáng lung linh không thể nào nắm bắt được.
***
CÁP TREO
Gần đây mình buộc phải bớt thú đi bộ và leo dốc vì vậy nên muốn dùng cáp treo đi từ đồi Robin đến Hồ Tuyền Lâm. Lần trước đến Đà Lạt cũng định đi cáp treo nhưng hôm đó gió lớn quá nên cáp tạm ngưng hoạt động, lần này may mắn hơn nên có thể quan sát gần như toàn cảnh thành phố.

Một góc Đà Lạt nhìn từ đồi Robin, nơi bắt đầu tuyến cáp treo.
Đà Lạt ngàn thông nhìn từ cáp treo.
Đi dọc theo đường đèo hoặc đứng trên triền dốc nhìn xuống những đồi thông, nghe tiếng gió đi qua trên những ngọn thông đã rất thích nhưng ít phút ngồi trên cáp treo cho mình sự thú vị khác, cảm giác của cánh chim bay là là trên những ngọn đồi, trên những ngọn thông lá non xanh mướt, thấy núi rừng mênh mông tận dãy núi mờ xa thật đẹp.
Hồ Tuyền Lâm
và Thiền viện Trúc Lâm
nhìn từ cáp treo
Cuối tuyến cáp, thiền viện Trúc Lâm và hồ Tuyền Lâm hiện ra như trong một bức tranh thủy mặc. Mặc dù là thiền viện nhưng do du khách quá đông nên chẳng thấy không khí trầm mặc thiền tính ở đâu cả. Nhiều lần tới đây mình ao ước có một lần được nghe tiếng chuông chùa ngân nga lan ra trên mặt hồ, giữa sự tĩnh lặng của núi rừng, để nghe lòng êm lắng lại, nhưng bao giờ mình mới có cái diễm phúc đó !? 
Bước xa khỏi thiền viện một chút thôi thì giá dịch vụ ở đây thuộc loại "hãi hùng", kể cả khi bạn ghé quán dùng cơm chay! Tính ra giá dịch vụ ở đây mắc hơn nhiều so với giá ở Vịnh Hạ Long và nếu đi thuyền qua phía bờ kia của hồ Tuyền Lâm thì giá của một chai vang Đà Lạt sẽ gấp đôi giá của nó tại chợ Đà Lạt, còn nếu bạn muốn ăn uống thì nên coi chừng bởi giá một dĩa rau trộn dầu olive - tại xứ sở nổi tiếng về rau nhiều và ngon - có thể làm bạn hoảng hốt! Kinh nghiệm "đau thương" đó khiến mình đến đây chỉ để nhìn ngắm và vãn cảnh thiền viện mà thôi!

***
LANG BIANG
Mặc dù hướng dẫn viên đề nghị cả đoàn hủy dự định viếng đỉnh Lang Biang vì ở đó mây đang phủ dày đặc và mưa rất lớn, xe lên không an toàn, nhưng có thể máu mạo hiểm khiến cả đoàn đều giơ tay quyết định cứ lên. Mua cái áo mưa mỏng te, gió thổi phần phật, mặc vào mới chút xíu đã rách toẹt. Leo lên chiếc U-Oát cũng ướt nhẹp, ngồi lúc nhúc. Đường đèo ngoằn ngoèo, trơn, tiếng máy xe gầm gừ trong tiếng mưa rào rạt, anh chàng tài xế liên tiếp vừa mới đánh tay lái sang trái lại đánh sang phải, căng thẳng đến nổi không buồn trả lời câu hỏi nào của ai trong đoàn, chỉ khi lên tới đỉnh núi mới buông một tiếng "Phào!"

Ở đây độ cao 1950 mét, nhìn xuống lũng chẳng thấy gì vì mây mù dày đặc. Gió giật từng cơn mưa núi phù phù, sợi mưa bay ngang ngang. Thôi thì vào quán gọi hai ly trà gừng cho mình và người đẹp. Hóa ra lại rất lãng mạn, vừa nhấm nháp vị ngọt nồng của ly trà ấm giữa hai bàn tay, vừa nhìn vũ điệu của những ngọn thông lắc lư bên ngoài cửa kiếng !
Thông trên đỉnh Lang Biang: "Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"

***

Đợi chờ trong sảnh khách sạn Lê Vũ
NGƯỜI ĐẸP

Nhìn cái hình này xem. Người ngồi bên phải là người đẹp của mình đó. Nàng cười rất tươi phải không? Như một đóa hồng của Đà Lạt vậy. Đà Lạt làm cho nàng đẹp hay nàng làm cho Đà Lạt đẹp hơn!?
***


TRÀ TÂM CHÂU


Trên đường về, ghé chỗ trà Tâm Châu. Ở đó phục vụ trà và cà phê miễn phí. Không gian rộng lớn và lịch sự. Nhưng bạn đừng uống thứ trà đá và cà phê đá phục vụ ở ngay lối vào, thứ trà tầm thường và cà phê tầm thường đó cũng giống nơi khác thôi! Nếu bạn có đủ thời gian, hãy ghé cánh trái của tòa nhà - ở đó ít ồn ào - bạn sẽ thấy một cô bé với bộ đồ pha trà tuyệt vời (coi chừng: nếu bạn còn trẻ chứ không phải già như tôi thì bạn có thể say đắm cô bé đấy!). Hãy để cô bé thong thả pha trà Ô Long của Tâm Châu mời bạn. Phải mất một chút thời gian. Hãy nghe cô bé nói về nghệ thuật pha trà và hãy chậm rãi thưởng thức chén trà được mời. Chén trà đó nhỏ xíu nhưng cũng đủ cho mình thấy cuộc đời đẹp và đáng sống!

***
NỖI NIỀM



Nhiều thứ đã và sẽ thay đổi phải không? Suối Cam Ly giờ đây chỉ là một dòng chảy nhỏ giữa hai bờ kè bê tông. Thác cũng có thể cạn dòng phải không? Pongour từng nổi tiếng vì vẻ đẹp hùng vĩ mà bây giờ chỉ còn trơ vách đá khô. Nhưng khi bạn thật sự yêu ai hay yêu một vùng đất nào đó thì tình yêu có thể là vĩnh cữu. Dù mọi thứ có đổi thay nhưng rồi bạn sẽ nhớ nàng tha thiết. Như nhạc sĩ Minh Kỳ, một ngày nọ bạn sẽ gọi thầm Đà Lạt ơi, Đà Lạt ơi phải không?

Thác Pongour hầu như cạn nguồn nước.