Hai
tháng trước, được bạn già Tăng Văn Dom tặng cho tập thơ. Tập Xuân Thu ức cảm photocopy
trên giấy khổ A4, nhiều chỗ thủ bút. 63 bài thơ thể cổ phong bằng Hán-tự bạn đã viết trong gần như suốt một đời, từ buổi
còn trẻ vất vả trầm luân ở một huyện nghèo xa xôi cho đến lúc về hưu. Bây giờ và
ở đây mà tìm ra người còn đọc Đường thi đã là khó, huống chi để tìm ra người
còn làm thơ bằng chữ Hán, mà lại là thể cổ phong nữa…! Mình bạc đầu rồi, học
chẳng xong mấy trang Tam-Thiên-Tự, làm thơ thì lõm bõm dăm câu lạc vận, lấy tài
chi mà thưởng lãm món quà trang trọng. Cũng may mà bạn chịu khó phiên âm Hán–Việt
để mình có được cơ duyên thưởng thức của hiếm này.
Nhà giáo Tăng
Văn Dom, hiệu Giác Tuệ, tính tình có phần trầm mặc - nửa như kẻ sĩ ước thúc lạc
lõng, nửa giống cư sĩ thiền gia tự tại – làm thơ chỉ vì
Tuổi già rảnh rỗi làm thơ giải sầu.
Mình rót chén trà
rồi cùng bạn ngồi đọc tập thơ, bồi hồi thấy lung linh bóng dáng ông đồ già u
uẩn ngày nào của Vũ Đình Liên - từ trong quá khứ mịt mờ sương khói - lại tiêu
dao bước về giữa những trang thơ…
***
Mơ và sầu! Cuộc
đời vốn chất đầy những mơ ước và những nỗi sầu! Giác Tuệ trải qua nhiều cảnh
đời, nhìn và thấy không thiếu gì chuyện bất túc và bất toàn, chứng kiến bao
nhiêu thứ đau khổ của cõi người, thì làm thơ như gieo một vần làm cầu nối những
sầu nhân thế với những giấc mơ đời.
Thơ là thơ chữ
Hán mà hồn lại là hồn Việt đậm đà…
Cảm cái tình bạn
trong buổi chiều tan, mình cố làm một chuyện khó khăn: mò mẫm trong mớ Hán tự súc
tích mà rối rắm, khi phồn thể, lúc giản thể, dịch ít bài để trình cho ai người
cùng đọc. Biết có ai còn đọc để cùng mơ cùng sầu!?
***
Bốn mươi năm trước Giác Tuệ cùng ta dạy học ở một huyện được kể là vùng sâu vùng xa của Bến
Tre. Việc đi lại quá sức khó khăn nên nhiều khi thày giáo trẻ nhớ mà không thể
về thăm nhà. Cùng một tâm cảnh, nên những tối buồn, ta đôi lúc
cũng ghé chơi chỗ Giác Tuệ. Bài thơ này làm nhớ con đường đến nhà trọ của Giác
Tuệ. Trung thu ở đây không giống trung thu bên Tàu để có trời đẹp trăng trong. Chốn này cuối tháng tám, mưa đêm rỉ rả lê thê, đêm nào không trăng con đường tối
đến nỗi xòe bàn tay trước mặt không thấy được ngón tay, còn đêm trăng sáng thì cũng bị hai hàng cây bên đường che mờ mờ, không gian huyễn hoặc liêu trai.
Thiệt là: Tiêu tiêu tế vũ âm thu dạ /
Thời thời khuyển phệ nguyệt ảnh tà! Bài “Thu dạ ức gia” đây chính là cái
cảnh tình đó:
秋 夜 憶 家
僬 僬 細 雨 陰 秋 夜
時 時 犬 吠 月 影 斜
眠 斷 依 囪 觀 月 盡
不 知 何 日 再 歸 傢
Thu
dạ ức gia
Tiêu
tiêu tế vũ âm thu dạ
Thời
thời khuyển phệ nguyệt ảnh tà
Miên
đoạn ỷ song quán nguyệt tận
Bất
tri hà nhật tái quy gia
Đêm thu
nhớ nhà.
Đêm thu
hiu hắt mưa bụi bay
Năm canh
chó sủa bóng trăng phai
Đứt giấc dựa
song xem trăng lặn
Biết đến
hôm nao trở lại nhà ?
Rất lâu mới về thăm quê nhà một lần nên đến cái ngày... có đội mưa về cũng không gặp lại nàng nữa:
入 雨 憶 人
故 鄉 离 別 三 秋 去
落 日 迴 歸 雨 雰 雰
誰 家 少 女 欣 欣 哨
停 步 低 头 忆 故 人
Nhập vũ ức nhân
Cố hương ly biệt tam thu khứ
Lạc nhật hồi quy vũ phân phân
Thùy gia thiếu nữ hân hân tiếu
Đình bộ đê đầu ức cố nhân
Đi trong
mưa nhớ người
Quê xưa ly
biệt ba năm
Chiều nay
về lại mưa thâm mù mù
Nhà ai hớn
hở tiểu thư
Chậm chân
cúi mặt chần chừ tưởng ai.
Mấy năm đó vừa hết giặc này lại đến giặc kia. Kinh tế cạn cùng, thường bữa ăn chẳng no –
áo không được lành, lòng người ly tán. Lý này lẽ nọ nhiều kẻ phải tha hương,
một bước ra đi không dám tưởng có ngày còn sống mà được trở về quê: Lạc diệp ly chi biệt bất hoàn. Bước ra đi
mà lòng đau như cắt. Bài Cố hương này là kí thác tâm tình của một người bạn của
Giác Tuệ trong cảnh ấy. Ta hỏi Giác Tuệ vậy chớ độ-cựu-giang là cựu-giang
nào. Giác Tuệ bảo thì bến phà Rạch Miểu ấy mà! A… người con nào của Bến Tre
ngày xưa ra đi mà không nhớ dòng sông Tiền mênh mang và những chuyến phà Rạch
Miểu. Chẳng biết Đằng-Vương-Các-Tự đẹp cỡ nào mà Vương Bột viết được câu “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”, chớ này bạn ơi, nếu một
chiều êm nào có dịp ngồi trên chuyến phà Rạch Miểu mơ màng nhìn xa về phía cửa Đại thì mới
thấy đúng là thu thủy cộng trường thiên nhất sắc… Vậy làm sao mà kẻ
ra đi không nửa đêm tỉnh giấc, bồi hồi tự hỏi biết có ngày nào qua lại chuyến phà
xưa!
故 鄉
狂 風 忽 起 掃 林 山
落 葉 離 枝 別 不 還
故 鄉 夜 夢 眠 斷 問
何 日 歸 來 渡 舊 江
Cố
hương
Cuồng
phong hốt khởi tảo lâm san
Lạc
diệp li chi biệt bất hoàn
Cố
hương dạ mộng miên đoạn vấn
Hà
nhật quy lai độ cựu giang
Làng cũ
Núi rừng
bỗng nổi cuồng phong
Rơi không
trở lại lá lìa cành khô
Giật mình hỏi
giữa cơn mơ
Bao giờ về
lại quê xưa qua đò.
Người đi thì đã đành vậy, nhưng còn
mẹ già trong bóng chiều:
望 子
來 秋 葉 又 洛
茅 屋 萋 綠 蕪
庭 暮 母 攜 杖
望 子 十 悲 秋
Vọng
tử
Lai
thu diệp hựu lạc
Mao
ốc thê lục vu
Đình
mộ mẫu huề trượng
Vọng
tử thập bi thu
Ngóng con.
Thu về lá
lại rơi rơi!
Nhà tranh
rậm rịt xanh rì cỏ hoang
Mỗi chiều lê
gậy trước sân
Mười năm
buồn bã trông con, mẹ già.
Bạn cũ cũng nhớ nhau:
除 夜 忆 故 人
亭 前 點 點 梅 花 開
天 地 悠 悠 與 入 春
除 夜 寂 寞 酒 独 飲
舉 杯 我 愁 忆 故 人
Trừ
dạ ức cố nhân.
Đình
tiền điểm điểm mai hoa khai
Thiên
địa du du dữ nhập xuân
Trừ
dạ tịch mịch tửu độc ẩm
Cử
bôi ngã sầu ức cố nhân.
Đêm giao
thừa nhớ bạn cũ.
Trước thềm
mai lấm tấm hoa
Đất trời
khắp nẻo chan hòa sắc xuân
Giao thừa
ngồi nhớ bâng khuâng
Rượu đầy
nhưng chẳng cố nhân uống cùng.
(Giác Tuệ dịch)
Bao nhiêu năm ở
chốn quê người, làm thân lãng tử, cầu cho được câu lá rụng về cội! Rồi một ngày
bạn xưa cũng về tới đường xưa, nào cỏ, nào trúc, nào mai… Thế nhưng Giác Tuệ
lại để vắng bóng người… Hay bóng mẹ (母- mẫu) đã ẩn vào dáng mai (梅 - mai)!!! Mẹ ơi con đã về đây!
歸 家
歸 路 草 芽 碧
飄 姚 綠 竹 枝
門 前 梅 含 咲
浪 子 白 頭 歸
Quy
gia
Quy
lộ thảo nha bích
Phiêu
diêu lục trúc chi
Môn
tiền mai hàm tiếu
Lãng
tử bạch đầu quy.
Về nhà
Đường về
xanh mướt cỏ non
Trúc xanh
phơ phất vẫn còn lối đi
Mai vàng
trước cửa cười chi
Con già tóc
bạc hồi quy đây mà !
Rồi tới một ngày buồn lắm! Giác Tuệ
mất đứa con gái yêu đầu lòng:
夜 闌 念 子
夜 闌 眠 忽 斷
囪 外 月 渺 渺
喔 喔 雞 鳴 起
念 子 何 處 飄
Dạ
lan niệm tử.
Dạ
lan miên hốt đoạn
Song
ngoại nguyệt diêu diêu
Ốc
ốc kê minh khởi
Niệm
tử hà xứ phiêu.
Đêm khuya
nhớ con
Cuối đêm
thức giấc giật mình
Ngoài song
kia đã mờ mờ trăng lu
Óc eo gà
gáy canh tư
Thương con
chẳng biết gió đưa nơi nào
Ngày giáp tết đi quét mộ cho ông bà,
thấy có nấm cỏ xanh không năm nào có người chăm sóc cũng động tâm:
春 感
墓 上 萋 萋 滿 亂 草
新 岁 春 來 無 人 扫
几 渡 黃 梅 对 墓 开
寂 人 此 時 何 处 到
Xuân cảm
Mộ thượng thê thê mãn loạn thảo
Tân tuế xuân lai vô nhân tảo
Kỷ độ hoàng mai đối mộ khai
Tịch nhân thử thời hà xứ đáo
Cảm xúc
ngày xuân
Mộ ai cỏ
rối rầu rầu
Sao không
người tảo để sầu gió xuân?
Mai vàng
đã nở bao lần !
Người xưa
nay đã nương thân chốn nào?
(Giác Tuệ dịch)
Đọc suốt tập thơ không mấy khi thấy
Giác Tuệ được thanh thản trừ buổi dong thuyền trên dòng Hương:
香 江 夜
遊 船 香 江 夜
輝 輝 月 瓏 波
左 岸 聞 聲 琴
南 哀 如 落 花
右 岸 樹 漠 漠
御 坪 月 光 斜
鐘 聲 天 姥 點
執 杯 向 月 歌
Hương
giang dạ
Du
thuyền Hương Giang dạ
Huy
huy nguyệt lung ba
Tả
ngạn văn thanh cầm
Nam
Ai như lạc hoa
Hữu
ngạn thụ mạc mạc
Ngự
Bình nguyệt quang tà
Chung
thanh Thiên Mụ điểm
Chấp
bôi hướng nguyệt ca.
Đêm sông
Hương
Sông Hương
một tối dong thuyền
Long lanh
bóng nguyệt dập dềnh sóng đưa
Nam Ai
vẳng khúc nhặt thưa
Bờ kia tưởng
tiếng hoa mưa giữa dòng
Ngự Bình chừ
nhạt trăng trong,
Bờ ni mờ
mịt hàng thông soi mình
Chuông chùa
Thiên Mụ rung rinh,
Ngó trăng,
nâng chén với mình ngân nga.
(Diệu Hạnh dịch)
Dù sớm hay muộn khi đã kinh qua
những hư vọng sắc tướng, phập phù những nỗi nhân sinh, rồi thì cũng đến lúc
trầm tư về cuộc trần ai, lẽ sinh tử:
人 生
水 底 玲 瓏 秋 月 影
彬 彬 霞 色 眺 長 天
人 生 不 异 霜 江 早
貧 富 枯 榮 只 夢 眠
Nhân
sinh
Thủy
để linh lung thu nguyệt ảnh
Bân
bân hà sắc diểu trường thiên
Nhân
sinh bất dị sương giang tảo
Bần
phú khô vinh chỉ mộng miên.
Cõi người.
Trăng thu đáy
giếng lung linh.
Ráng chiều
rực rỡ bóng hình trời cao.
Cõi người sương
khói như nhau,
Nghèo giàu
tươi héo mộng phào mà thôi.
Tập thơ kết thúc bằng hai câu:
悟
廣 川 浪 浪 岸 不 見
寂 心 必 悟 向 渡 江
Ngộ
Quảng
xuyên lãng lãng ngạn bất kiến
Tịch
tâm tất ngộ hướng độ giang.
Mênh mông
nào thấy bến bờ
Tâm tư
buông xả thuyền chờ qua sông.
(Giác Tuệ
dịch)
Chẳng được như Giác Tuệ, mình thì đôi
lúc thấy lòng mình cũng không chắc rõ tâm mình… biết làm sao để cho tâm tịch mịch!?
Còn bạn, người đọc Giác Tuệ, bạn có đồng cảm hay chia sẻ gì không ?